Ân Hiền Hí Phê Thư..Mạnh, Lôn Nhị Đồng
Nguyên tác: Liễu Tông Nguyên
殷賢戲批書後寄劉連州
並示孟,崙二童
柳宗元
書成欲寄庾安西,
紙背應勞手自題。
聞道近來諸子弟,
臨池尋已厭家雞。
Ân Hiền Hí Phê Thư Hậu Ký Lưu Liên Châu
Tịnh Thị Mạnh, Lôn Nhị Đồng
Liễu Tông Nguyên
Thư thành dục ký Dữu An Tê,
Chỉ bối ưng lao thủ tự đề.
Văn đạo cận lai chư tử đệ,
Lâm trì tầm dĩ yếm gia kê.
Chú thích: 1/ Ghi chú của tác giả LTN: “Nhà có thư pháp của Hữu quân , sau mỗi tờ trong sáu tờ, Dữu Dực có ghi ‘Vương Cối Kê’, ngày 30 tháng 2 mở ra thưởng thức.” 2/ Hữu quân và Vương Cối Kê, tức Vương Hy Chi, tự Dật Thiếu, người đời Đông Tấn, quan làm tới Hữu quân tướng quân, Cối Kê nội sử. 3/ Dữu Dực, người đương thời với Vương Hy Chi, giữ chức An Tây tướng quân. 4/ Tác giả LTN cũng giỏi viết thư pháp, nhiều kẻ sinh sau bắt chước cách viết, trong đó có hai con Mạnh và Côn của Lưu Vũ Tích. 5/ Ân Hiền, là anh em họ của LTN. 6/ Lưu Liên Châu, tức Lưu Vũ Tích, làm thứ sử Liên Châu. 6/ Hai câu đầu bắt chước tình bạn xưa của Vương Hy Chi và Dữu Dực.
Dịch nghĩa:
Ân Hiền Viết Bỡn Thư Pháp Xong Gửi Cho Họ Lưu Ở Liên Châu, Cùng Hai Cháu Mạnh, Côn.
Thư pháp viết xong muốn gửi tới An Tây tướng quân họ Dữu, đằng sau tờ giấy tôi đã tự đề [tên tôi] rồi. Nghe nói gần đây con em [của ông]; vào ao [mực] kiếm [thầy giỏi] vì đã chán gà nhà rồi.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Thư pháp gửi An Tây họ Dữu
Đằng sau lưng đã tự đề tên
Gần đây nghe nói con em
Vào ao tìm học, hết khen gà nhà.
--Bản dịch của Viên Thu--
Xong thư pháp gửi Dữu, An tây,
Sau giấy, danh tên đã viết này.
Nghe nói gần đây con cháu bác,
Gà nhà chê, kiếm chữ ao ngoài.
Nguyên tác: Liễu Tông Nguyên
殷賢戲批書後寄劉連州
並示孟,崙二童
柳宗元
書成欲寄庾安西,
紙背應勞手自題。
聞道近來諸子弟,
臨池尋已厭家雞。
Ân Hiền Hí Phê Thư Hậu Ký Lưu Liên Châu
Tịnh Thị Mạnh, Lôn Nhị Đồng
Liễu Tông Nguyên
Thư thành dục ký Dữu An Tê,
Chỉ bối ưng lao thủ tự đề.
Văn đạo cận lai chư tử đệ,
Lâm trì tầm dĩ yếm gia kê.
Chú thích: 1/ Ghi chú của tác giả LTN: “Nhà có thư pháp của Hữu quân , sau mỗi tờ trong sáu tờ, Dữu Dực có ghi ‘Vương Cối Kê’, ngày 30 tháng 2 mở ra thưởng thức.” 2/ Hữu quân và Vương Cối Kê, tức Vương Hy Chi, tự Dật Thiếu, người đời Đông Tấn, quan làm tới Hữu quân tướng quân, Cối Kê nội sử. 3/ Dữu Dực, người đương thời với Vương Hy Chi, giữ chức An Tây tướng quân. 4/ Tác giả LTN cũng giỏi viết thư pháp, nhiều kẻ sinh sau bắt chước cách viết, trong đó có hai con Mạnh và Côn của Lưu Vũ Tích. 5/ Ân Hiền, là anh em họ của LTN. 6/ Lưu Liên Châu, tức Lưu Vũ Tích, làm thứ sử Liên Châu. 6/ Hai câu đầu bắt chước tình bạn xưa của Vương Hy Chi và Dữu Dực.
Dịch nghĩa:
Ân Hiền Viết Bỡn Thư Pháp Xong Gửi Cho Họ Lưu Ở Liên Châu, Cùng Hai Cháu Mạnh, Côn.
Thư pháp viết xong muốn gửi tới An Tây tướng quân họ Dữu, đằng sau tờ giấy tôi đã tự đề [tên tôi] rồi. Nghe nói gần đây con em [của ông]; vào ao [mực] kiếm [thầy giỏi] vì đã chán gà nhà rồi.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Thư pháp gửi An Tây họ Dữu
Đằng sau lưng đã tự đề tên
Gần đây nghe nói con em
Vào ao tìm học, hết khen gà nhà.
--Bản dịch của Viên Thu--
Xong thư pháp gửi Dữu, An tây,
Sau giấy, danh tên đã viết này.
Nghe nói gần đây con cháu bác,
Gà nhà chê, kiếm chữ ao ngoài.