Ba Lĩnh Đáp Đỗ Nhị Kiến Ức
Nguyên tác: Nghiêm Vũ
巴嶺答杜二見憶
嚴武
臥向巴山落月時,
兩鄉千里夢相思。
可但步兵偏愛酒,
也知光祿最能詩。
江頭赤葉楓愁客,
籬外黃花菊對誰。
跂馬望君非一度,
冷猿秋雁不勝悲。
Ba Lĩnh Đáp Đỗ Nhị Kiến Ức
Nghiêm Vũ
Ngọa hướng Ba sơn lạc nguyệt thì
Lưỡng hương thiên lý mộng tương tư
Khả đản bộ binh thiên ái tửu
Dã tri quang lộc tối năng thi
Giang đầu xích diệp phong sầu khách
Ly ngoại hoàng hoa cúc đối thùy
bạt mã vọng quân phi nhất độ
Lãnh viên thu nhạn bất thắng bi.
--Bản dịch của Song Nguyễn Hàn Tú
Đáp Thư Đỗ Nhị
Nhìn hướng núi Ba trăng khuya dần khuất
Nhớ về người dù cách biệt ngàn xa
Bên men nồng giờ riêng một mình ta
Ngồi nhớ đến Quang Lộc quan thi bá
Lòng khắc khoải nhìn cây phong thay lá
Quanh ải quan, giờ dậu cúc đơm bông
Đã bao lần ghìm cương ngựa ngóng trông
Nghe vượn hú,
nhìn nhạn thu . . .
tê tái
-Chú thích:-
Đỗ Nhị: Đỗ Phủ đứng hàng thứ hai trong gia đình, nên gọi là Đỗ Nhị
bộ binh: chức quan võ của Nghiêm Vũ
quang lộc: chức quan một thời của Đỗ Phu
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Ngồi nhìn trăng lặn khuất Ba Sơn
Thương nhớ người xa cách dặm ngàn
Thương bộ binh buồn nâng chén cạn
Nhớ quang lộc hứng ý thơ tràn.
Bến sông đưa khách phong tô đỏ
Quan ải nhớ ai cúc trỗ vàng.
Cưỡi ngựa vời trông người mấy lượt,
Nhạn thu,vượn hú lắm bi quan !
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Nằm nghỉ hướng núi Ba trăng đã lặn
Hai phương trời xa thẳm nhớ về ông
Ta chỉ là chiến tướng thích rượu nồng
Ông quan lớn thơ hay hàng thi bá
Nơi đầu sông lá phong buồn trở đỏ
Hoa cúc vàng bên giậu nở chờ ai
Hơn một lần ta ghìm ngựa trông hoài
Chỉ thấy vượn, thấy nhạn thu, buồn bã
--Bản dịch của Trần Trọng San--
Trăng tà, nằm hướng núi Ba xưa,
Ngàn dặm hai làng, nhớ giữa mơ.
Chỉ có bộ-binh riêng thích rượu,
Biết rằng quang-lộc rất hay thơ.
Đầu sông đỏ lá phong buồn bã,
Ngoài giậu vàng hoa cúc hững hờ.
Chẳng phải một lần ghìm ngựa ngóng,
Não nề vượn lạnh, nhạn kêu thu !
--Bản dịch của Viên Thu--
Nằm vọng non Ba nguyệt lặn thôi,
Hai quê ngàn dặm mộng pha phôi.
Bộ binh yêu rượu thì cùng rõ,
Quang lộc hay thơ đã hẳn rồi.
Đầu bến đỏ phong buồn đón khách,
Bên rào vàng cúc đợi chờ ai.
Bao lần kềm ngựa xa vời ngóng,
Vượn lạnh, thu sầu nhạn lẻ đôi.
Nguyên tác: Nghiêm Vũ
巴嶺答杜二見憶
嚴武
臥向巴山落月時,
兩鄉千里夢相思。
可但步兵偏愛酒,
也知光祿最能詩。
江頭赤葉楓愁客,
籬外黃花菊對誰。
跂馬望君非一度,
冷猿秋雁不勝悲。
Ba Lĩnh Đáp Đỗ Nhị Kiến Ức
Nghiêm Vũ
Ngọa hướng Ba sơn lạc nguyệt thì
Lưỡng hương thiên lý mộng tương tư
Khả đản bộ binh thiên ái tửu
Dã tri quang lộc tối năng thi
Giang đầu xích diệp phong sầu khách
Ly ngoại hoàng hoa cúc đối thùy
bạt mã vọng quân phi nhất độ
Lãnh viên thu nhạn bất thắng bi.
--Bản dịch của Song Nguyễn Hàn Tú
Đáp Thư Đỗ Nhị
Nhìn hướng núi Ba trăng khuya dần khuất
Nhớ về người dù cách biệt ngàn xa
Bên men nồng giờ riêng một mình ta
Ngồi nhớ đến Quang Lộc quan thi bá
Lòng khắc khoải nhìn cây phong thay lá
Quanh ải quan, giờ dậu cúc đơm bông
Đã bao lần ghìm cương ngựa ngóng trông
Nghe vượn hú,
nhìn nhạn thu . . .
tê tái
-Chú thích:-
Đỗ Nhị: Đỗ Phủ đứng hàng thứ hai trong gia đình, nên gọi là Đỗ Nhị
bộ binh: chức quan võ của Nghiêm Vũ
quang lộc: chức quan một thời của Đỗ Phu
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Ngồi nhìn trăng lặn khuất Ba Sơn
Thương nhớ người xa cách dặm ngàn
Thương bộ binh buồn nâng chén cạn
Nhớ quang lộc hứng ý thơ tràn.
Bến sông đưa khách phong tô đỏ
Quan ải nhớ ai cúc trỗ vàng.
Cưỡi ngựa vời trông người mấy lượt,
Nhạn thu,vượn hú lắm bi quan !
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Nằm nghỉ hướng núi Ba trăng đã lặn
Hai phương trời xa thẳm nhớ về ông
Ta chỉ là chiến tướng thích rượu nồng
Ông quan lớn thơ hay hàng thi bá
Nơi đầu sông lá phong buồn trở đỏ
Hoa cúc vàng bên giậu nở chờ ai
Hơn một lần ta ghìm ngựa trông hoài
Chỉ thấy vượn, thấy nhạn thu, buồn bã
--Bản dịch của Trần Trọng San--
Trăng tà, nằm hướng núi Ba xưa,
Ngàn dặm hai làng, nhớ giữa mơ.
Chỉ có bộ-binh riêng thích rượu,
Biết rằng quang-lộc rất hay thơ.
Đầu sông đỏ lá phong buồn bã,
Ngoài giậu vàng hoa cúc hững hờ.
Chẳng phải một lần ghìm ngựa ngóng,
Não nề vượn lạnh, nhạn kêu thu !
--Bản dịch của Viên Thu--
Nằm vọng non Ba nguyệt lặn thôi,
Hai quê ngàn dặm mộng pha phôi.
Bộ binh yêu rượu thì cùng rõ,
Quang lộc hay thơ đã hẳn rồi.
Đầu bến đỏ phong buồn đón khách,
Bên rào vàng cúc đợi chờ ai.
Bao lần kềm ngựa xa vời ngóng,
Vượn lạnh, thu sầu nhạn lẻ đôi.