• Kể từ khi các bạn đọc được Thông báo này. Tất cả Khách truy cập trên Văn Đàn chỉ có thể xem bài viết và không thể gửi được góp ý hay ý kiến cá nhân. Vui lòng bạn hãy Đăng Ký để trở thành một thành viên của Văn Đàn, các bạn mới có đầy đủ quyền truy cập trên Văn Đàn. Việc Đăng Ký hoàn toàn miễn phí và rất nhanh chóng.
    Thân!

Cổ Thi Trung Quốc Bắc chinh

Thiên Sầu
  • Lượt xem 836
  • Trả lời: 0
Bắc chinh
Nguyên tác: Đỗ Phủ


bacchinh.jpg



北征
杜甫
 皇帝二载秋, 闰八月初吉。
  杜子将北征, 苍茫问家室。
  维时遭艰虞, 朝野少暇日。
  顾惭恩私被, 诏许归蓬荜。
  拜辞诣阙下, 怵惕久未出。
  虽乏谏诤姿, 恐君有遗失。
  君诚中兴主, 经纬固密勿。
  东胡反未已, 臣甫愤所切。
  挥涕恋行在, 道途犹恍惚。
  乾坤含疮痍, 忧虞何时毕!
  靡靡逾阡陌, 人烟眇萧瑟。
  所遇多被伤, 呻吟更流血。
  回首凤翔县, 旌旗晚明灭。
  前登寒山重, 屡得饮马窟。
  邠郊入地底, 泾水中荡潏。
  猛虎立我前, 苍崖吼时裂。
  菊垂今秋花, 石戴古车辙。
  青云动高兴, 幽事亦可悦。
  山果多琐细, 罗生杂橡栗。
  或红如丹砂, 或黑如点漆。
  雨露之所濡, 甘苦齐结实。
  缅思桃源内, 益叹身世拙。
  坡陀望鄜畤, 岩谷互出没。
  我行已水滨, 我仆犹木末。
  鸱鸟鸣黄桑, 野鼠拱乱穴。
  夜深经战场, 寒月照白骨。
  潼关百万师, 往者散何卒?
  遂令半秦民, 残害为异物。
  况我堕胡尘, 及归尽华发。
  经年至茅屋, 妻子衣百结。
  恸哭松声回, 悲泉共幽咽。
  平生所娇儿, 颜色白胜雪。
  见爷背面啼, 垢腻脚不袜。
  床前两小女, 补绽才过膝。
  海图坼波涛, 旧绣移曲折。
  天吴及紫凤, 颠倒在裋褐。
  老夫情怀恶, 呕泄卧数日。
  那无囊中帛, 救汝寒凛栗。
  粉黛亦解包, 衾裯稍罗列。
  瘦妻面复光, 痴女头自栉。
  学母无不为, 晓妆随手抹。
  移时施朱铅, 狼藉画眉阔。
  生还对童稚, 似欲忘饥渴。
  问事竞挽鬚, 谁能即嗔喝?
  翻思在贼愁, 甘受杂乱聒。
  新归且慰意, 生理焉得说!
  至尊尚蒙尘, 几日休练卒?
  仰观天色改, 坐觉妖氛豁。
  阴风西北来, 惨澹随回纥。
  其王愿助顺, 其俗善驰突。
  送兵五千人, 驱马一万匹。
  此辈少为贵, 四方服勇决。
  所用皆鹰腾, 破敌过箭疾。
  圣心颇虚伫, 时议气欲夺。
  伊洛指掌收, 西京不足拔。
  官军请深入, 蓄锐伺俱发。
  此举开青徐, 旋瞻略恒碣。
  昊天积霜露, 正气有肃杀。
  祸转亡胡岁, 势成擒胡月。
  胡命其能久, 皇纲未宜绝。
  忆昨狼狈初, 事与古先别。
  奸臣竟菹醢, 同恶随荡析。
  不闻夏殷衰, 中自诛褒妲。
  周汉获再兴, 宣光果明哲。
  桓桓陈将军, 仗钺奋忠烈。
  微尔人尽非, 于今国犹活。
  凄凉大同殿, 寂寞白兽闼。
  都人望翠华, 佳气向金阙。
  园陵固有神, 扫洒数不缺。
  煌煌太宗业, 树立甚宏达。
Bắc chinh
Nhuận bát nguyệt sơ cát.
Đỗ tử tương bắc chinh,
Thương mang vấn gia thất.
Duy chỉ tao gian ngu,
Triều dã thiểu hạ nhật.
Cố tâm ân tư bị,
Chiếu hứa quy bồng tất.
Bái từ giai khuyết hạ,
Truật dịch cửu vi xuất.
Tuy phạp gián tránh tư,
Khủng quân hữu di thất.
Quân thành trung hưng chủ,
Kinh vĩ cố mật vật.
Đông Hồ phản vị dĩ,
Thần Phủ phẫn sở thiết.
Huy thế luyến hành tại,
Đao hồ do hoảng hốt.
Càn khôn hàm sang di,
Ưu ngu hà thì tất ?
Mĩ mĩ du thiên mạch,
Nhân yên diễu tiêu sắt.
Sở ngộ đa bi thương,
Thân ngâm cảnh lưu huyết.
Hồi thủ Phụng Tường huyện,
Tinh kỳ vãn minh diệt.
Tiền đăng hàn sơn trùng,
Lũ đắc ấm mã quật.
Phần giao nhập địa để,
Kinh thủy trung đãng duật.
Mãnh hổ lập ngã tiền,
Thương nhai hồng thì liệt.
Cúc thủy kim thu hoa,
Thạch đái cổ xa triệt.
Thanh vận động cao hứng,
U sự diệc khả duyệt.
Sơn quả đa tỏa tế,
La sinh tạp tượng lật.
Hoặc hồng như đan sa,
Hoặc hắc như điểm tất.
Vũ lộ chi sở nhu,
Cam khổ tề kết thực.
Miến tư đào nguyên nội.
ích thán thân thế chuyết !
Pha đà vọng Phu trĩ,
Nham cốc hỗ xuất một.
Ngã hành dĩ thủy tân,
Ngã bộc do mộc mạt.
Chi điểu minh hoàng tang,
Dã thủ củng loạn huyệt.
Dạ thâm kinh chiến trường,
Hàn nguyệt chiếu bạch cốt.
Đồng Quan bách vạn sư,
Vãng giả tán hà thốt ?
Toại linh bán Tần dân,
Tàn hại vi dị vật.
Huống ngã trụy Hồ trần,
Cập quy tận hoa phát.
Kinh niên chí mao ốc,
Thê tử y bách kết.
Đồng khốc tùng thanh hồi,
Bi tuyền cộng u yết.
Bình sinh sở kiêu nhi,
Nhan sắc bạch thắng tuyết.
Kiến gia bồi diện đề,
Cấu nhị cước bất miệt.
Sàng tiền lưỡng tiểu nữ,
Bổ đỉnh tài quá tất.
Hải đồ chiết ba đào,
Cựu tú di khúc chiết.
Thiên ngô cập tử phụng,
Điên đảo tại đoản hạt.
Lão phu tình hoài ác,
ẩu tiết ngọa sổ nhật.
Ná vô nang trung bạch,
Cứu nhữ hàn lẫm lật.
Phấn đại diệc giải bao,
Khâm trù sảo la liệt.
Sầu thê diện phục quang,
Si nữ đầu tự trất.
Học mẫu vô bất vi,
Hiểu trang tùy thủ mạt.
Di thì thi chu duyên,
Lang tạ họa mi khoát.
Sinh hoàn đối đồng trĩ,
Tự dục vong cơ khát.
Vấn sự cạnh vãn tu,
Thùy năng tức sân hát ?
Phiên tư tại tặc sầu,
Cam thụ tạp loạn quát.
Tân quy thả úy ý,
Sinh lý yên đắc thuyết !
Chi tôn thượng mông trần,
Kỷ nhật hưu luyện tốt.
Ngưỡng quan thiên sắc cải,
Tọa giác yêu phân khoát.
Âm phong tây bắc lai,
Thảm đạm tùy Hồi Ngột.
Kỷ vương nguyện trợ thuận,
Kỷ tục thiện trì đột.
Tổng binh ngũ thiên nhân,
Khu mã nhất vạn thất.
Thử bối thiểu vi quý,
Tứ phương phục dũng quyết.
Sở dụng giai ưng đằng,
Phá địch quá tiễn tật.
Thánh tâm phả hư trữ,
Thì nghĩ khí dục đoạt.
Y Lạc chỉ chưởng thu,
Tây kinh bất túc bạt.
Quan quân thỉnh thâm nhập,
Sức nhuệ khả câu phát.
Thử cử khai Thanh Từ,
Tuyền chiếm lược Hằng Kiệt.
Hao thiên tích sương lô,
Chính khí hữu túc sát.
Họa chuyển vong Hồ tuế,
Thế thành cầm Hồ nguyệt.
Hồ mệnh kỳ năng cửu ?
Hoàng cương vị nghi tuyệt !
ức tích lang bối sơ,
Sư dữ cổ tiên biệt.
Gian thần cánh tư hải,
Đồng ác tùy đãng tích.
Bất văn Hạ Ân suy,
Trung tự tru Bao Đát ?
Chu Hán hoạch tái hưng,
Tuyên Quang quả minh triết.
Hoàn hoàn Trần tướng quân,
Trượng việt phấn trung liệt.
Vi nhĩ nhân tận phi,
U kim quốc do hoạt.
Thê lương Đại Đồng điện,
Tịch mịnh Bạch Thú thát.
Đô nhân vọng thúy hoa,
Giai khí hướng kim khuyết.
Viên lăng cố hữu thần,
Tảo soái số bất khuyết.
Hoàng hoàng Thái Tông nghiệp,
Thụ lập thậm hoằng đạt.
--Bản dịch của Nhượng Tống
Vừa năm hoàng hiệu thứ hai,
Ngày lành tháng tám nhuận, trời về thu.
Có chàng họ Đỗ co ro,
Sắp sang miền Bắc thăm dò vợ con.
Bấy giờ giặc giã hãy còn,
Trong triều, ngoài nội bận luôn đêm ngày.
Xin về, chiếu chỉ cho ngay,
Ơn trên nhuần thấm, niềm tây thẹn thùng.
Tạ từ lạy trước sân rồng,
Bồn chồn chưa dễ yên lòng ra đi.
Can ngăn tuy chẳng giỏi gì,
Sợ vua lầm sót có khi không chừng.
Như người, bậc chúa trung hưng,
Ngang trời, dọc đất, ai bằng được đâu!
Đông Hồ làm phản bấy lâu,
Lòng tôi đây vẫn ruột dàu, gan căm.
Xa hành cung, hạt lệ đầm,
Dọc đường còn vẫn âm thầm sớm trưa.
Đầy trời ghẻ lở nhớp nhơ,
Niềm lo, mối nghĩ bao giờ cho nguôi?
Đồng điền man mác trông vời,
Vì đâu khói bếp, bóng người vắng teo?
Bị thương gặp kể cũng nhiều,
Vỡ đầu, đổ máu rên kêu đầy đường.
Quay đầu nhìn lại Phượng Tường,
Chiều hôm cờ quạt nhập nhoàng nẻo xa.
Mấy trùng núi vắng đi qua,
Đào cho ngựa uống kể ra bao lò?
Quận Mân đất trũng lòng mo,
Sông Kinh nước chảy xô bồ mông mênh.
Trước ta hùm dữ đứng rình,
Tiếng gào chuyển cả non xanh bốn bề.
Thu nay cúc nở vừa thì,
Xe xưa đá ngấn vết đi rành rành.
Hứng cao lên tận mây xanh,
Bao nhiêu phong cảnh quanh mình đáng yêu.
Lon con quả núi cũng nhiều,
Trái đa, trái dẻ chít chiu đầy cành.
Đỏ như son nhuộm xinh xinh,
Đen như sơn phủ long lanh ưa nhìn.
Móc mưa nhuần thấm kết nên,
Thứ chua, thứ ngọt, sang, hèn như nhau.
Bâng khuâng nhớ chuyện nguồn Đào,
Nghĩ mình vụng dại biết bao ở đời.
Châu Phu chừng sắp tới nơi,
Chốc thời lên dốc, chốc thời xuống khe.
Bên khe ta đã lần đi,
Đoái nhìn người ở chưa lìa ngọn cây.
Dâu vàng, cú, vọ đậu đầy,
Hang đen là chỗ cáo, cầy lẩn chui.
Chiến trường đêm tới mấy nơi,
Thăng dăng xương trắng, trăng soi lạnh lùng.
Toán quân trăm vạn ải Đồng,
Năm xưa thua chạy lung tung miền này.
Dân Tần quá nửa chết lây,
Bị đâm, bị chém làm thây không đầu.
Bụi Hồ lẩn quẩn theo nhau,
Giũ xong, tóc đã nhuộm màu hoa râm.
Nhà tranh vắng đã cách năm,
Vợ, con về thấy áo trăm mụn chằng.
Nào than, nào khóc vang lừng,
Suối khe nghẹn giọng, thông rừng thua hơi.
Con nuông thằng bé xinh trai,
Nước da tuyết trắng sánh coi chưa tầy,
Thấy cha quay mặt hờn ngay,
Hai chân đen thủi, không giày, khổ chưa!
Trước giường hai gái ngây thơ,
Vá nan, vá đụp, áo vừa chấm khoeo!
Mụn tìm phá bức tranh thêu,
Bể, non, sóng, nước, xé liều khâu quanh.
Cho nên trên chiếc áo manh,
Thần sông, phượng núi, hai hình còn nguyên.
Thân già bụng dạ không yên,
Trên nôn, dưới tả nằm rên mấy ngày,
Đẫy cha có ít lụa đây,
Cắt may làm áo cho mày đỡ run!
Cởi bao, này phấn, này son,
Này chăn, này đệm hãy còn sót đây.
Vợ già mặt bủng tươi ngay,
Tóc con bù rối liền tay chải đều.
Điểm tô mặt phấn mỹ miều,
Mẹ xoa con cũng xoa theo, tức cười!
Môi son bôi đánh đã rồi,
Mày xanh lạt kẻ đầu đuôi to xù.
Đàn con đú đởn nô đùa,
Ngồi nhìn quên cả đói no trong lòng.
Ai người quát mắng được không?
Nắm râu chúng hỏi lung tung mọi điều.
Quấy rầy thôi cũng cố chiều,
Nhớ khi trong giặc bao nhiêu lo buồn!
Hãy mừng gặp vợ, gặp con,
Mới về, cách sống hãy còn gác bên.
Bề trên đương bước truân chuyên,
Mấy ngày là nghỉ tập rèn quân gia.
Trông lên trời đổi màu da,
Nhìn quanh yêu khí lan ra mịt mùng.
Gió đưa tây bắc lạnh lùng,
Theo vua, Hồi Ngột sẵn lòng giúp oai.
Giống này xông đột có tài,
Lính năm nghìn kẻ, ngựa thời muôn con.
Quân ngoài dùng ít là hơn,
Đánh hăng đã khét tiếng đồn khắp nơi!
Tướng toàn hạng cắt ngang trời,
Phá tan trận giặc như người chẻ tre.
Lòng vua có ý tin vì,
Người ngoài bàn bạc ra bề không vui.
Trong tay, Y, Lạc thu rồi,
Tây Kinh cũng chỉ nay mai lấy về.
Quan quân xin tiến dấn đi,
Đem quân so sức đồng thì đánh nhanh.
Chuyến này cướp lại Từ, Thanh,
Hằng Sơn, Kiệt Thạch để dành lấy sau.
Cơ trời bĩ thái theo nhau:
Có hồi nắng ấm, có chầu tuyết sương.
Vạ qua rồi đến phúc sang,
Giặc rồi phải vỡ, phải hàng không lâu.
Vận Hồ bền vững được đâu
Dòng vua chưa có lẽ nào đã suy!
Nhớ hồi bối rối trước kia,
So cùng đời cổ kể thì khác xa!
Gian thần tội chết không tha,
Bao nhiêu đảng nịnh, lũ tà chẳng dong.
Hạ, Thương nào thấy đường cùng,
Giết trang nghiêng nước, lấy lòng muôn dân.
Tuyên, Quang là bậc minh quân,
Cho nên Chu, Hán có lần lại lên.
Tuốt gươm thề với hoàng thiên,
Tướng Trần Nguyên Lễ gan liền trơ trơ!
Nước nhà được sống đến giờ,
Trừ ông ra, bảo còn nhờ vào ai?
Đại Đồng cung cũ vắng người,
Nọ đền Bạch Hổ thềm ngoài rêu phong.
Dân Kinh ngóng bóng xe rồng,
Lại đua ấm cúng về trong cửa vàng.
Các lăng linh khí mơ màng,
Lễ dâng giữ đủ lệ thường chẳng sai.
Cơ đồ này dựng lâu dài,
Lại lừng lẫy được như đời Thái Tông.
Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn
Đi Miền Bắc
Muà thu năm thứ hai
Vua ngự trên ngai báu
Được lên miền Bắc xa
Nơi vợ con nương náu
Giữa gian khổ can qua
Khó khăn khăp mọi nhà
Riêng mình ân mưa móc
Vua cho về thăm nhà
Lậy tạ trước bệ rồng
Bước lui chẳng đành lòng
Thân bề tôi chưa vẹn
Đâu dám lời tôi trung
Vua là đấng con trời
Trị muôn dân tuyệt vời
Nhưng bọn Đông Hồ vẫn
Quấy nhiễu mãi không thôi
Khắp dân tình căm hận
Lời oán than ngất trời
Đành gạt lệ bước đi
Lòng vương vấn trăm bề
Đất trời nhiều ngang trai
Bao giờ hết nhiêu khê
Bước lầm lũi trên đồng
Bếp nhà ai khói vương
Người bị thương rên rỉ
Máu loang lổ trên đường
Quay đầu nhìn Phụng Tường
Bóng cờ giữa chiều buông
Núi trập trùng trước mặt
Nước vũng ngựa lỏng cương
Tới vùng trũng huyện Phần
Sông Kinh chẩy ầm ầm
Cọp lờn vờn trước mặt
Rống vang dội sơn lâm
Cúc rũ giữa mùa thu
Vết xe xưa rêu mờ
Lòng lâng lâng niềm hứng
Trời cao vút xanh lơ
Niềm vui giữa tịch liêu
Cây rừng trái thật nhiều
Dây leo xen quả dẻ
Đen lẫn đỏ son điều
Thấm mưa nắng thuận hoà
Ngọt đắng đều đơm hoa
Tâm vời nguồn đào cũ
Nghĩ mình thật vụng về
Gập ghềnh hướng châu Phu
Hang ẩn hiện lờ mờ
Tới ven bờ sông vắng
Vừng dương hãy còn kia
Cú trong ruộng dâu vàng
Chuột đùa giỡn trước hang
Đêm đi qua chiến địa
Trăng chiếu xương ngổn ngang
Trăm vạn quân Ải Đồng
Bỗng một thoáng bại vong
Khiến dân Tần một nửa
Thành ma thật não nùng
Thân ta bụi Hồ bám
Trở về tóc pha sương
Nơi mái tranh bước về
Nhìn vợ con thảm thê
Áo quần vá trăm mảnh
Cảnh bèo nheo não nề
Âm buồn tiếng suối reo
Thằng con xưa cưng chiều
Mặt xanh xao nhợt nhạt
Quay mặt chả thèm theo
Chân không đầy cáu ghét
Bên chiếc giường vẹo xiêu
Hai đứa con gái đứng
Áo cũn cỡn tiêu điều
Vợ, aó cũ biển thêu
Làn sóng đã gẫy nhiều
Nét dọc ngang xô lệch
Thiên ngô, phượng bèo nheo
Trong áo manh mỏng ngắn
Nhìn đau xót trăm chiều
Dù trong người chẳng yên
Bị tả mấy hôm liền
Cũng mở bao tặng lụa
Bớt nỗi lạnh triền miên
Son phấn bọc trong khăn
Mở ra bầy đầy chăn
Nét sầu nàng tan biến
Con chải đầu lăng xăng
Bắt chước mẹ điểm trang
Phấn son bôi lổ loang
Thỉnh thoảng chấm thoa sáp
Chân mày vẽ bệt ngang
Được gần gũi con thơ
Quên đói khát xác xơ
Trẻ kéo râu đùa giỡn
Đâu lỡ mắng con khờ
Sầu chinh chiến ngổn ngang
Con dại phá chẳng màng
Cùng vui ngày hội ngộ
Việc sinh kế bỏ sang
Thương Thiên Tử lao đao
Luyện quân bỏ được nào
Nhìn trời mây tang hải
Khí yêu quái dâng cao
Gió lạnh tây bắc qua
Hồi Ngột giúp quân nhà
Cùng quân mình liền cánh
Binh họ giỏi xông pha
Chỉ khoảng năm ngàn quân
Đoàn ngựa gấp hai lần
Binh ít nhưng tinh nhuệ
Họ kiên quyết bền gan
Quân tiến vụt như chim
Phá giặc nhanh hơn tên
Vua hết lòng tin cậy
Mặc dư luận đang lên
Trở tay đã thu Y
Tây Kinh đâu nề gì
Quan quân thêm hừng chí
Muốn cùng tiến một khi
Trận mở lối Thanh Từ
Hằng Kiệt chiếm êm ru
Trời móc sương trong sáng
Chính khí lấn bóng mờ
Họa hết lúc tàn Hồ
Thế vững lại như xưa
Khí Hồ sao tồn được
Trước kỷ cương nhà vua
Lúc thời buổi rối ren
Việc khác xưa nào quen
Bọn gian thần đền tội
Lũ đồng lõa cũng yên
Chuyện Hạ Ân nguy nan
Bọn Bao Đát tự tan
Chu Hán lên dựng nghiệp
Bậc tài có Tuyên Quang
Tướng Trần đấng anh hùng
Ngọn giáo bừng khí trung
Thiên hạ được bao kẻ
Giang sơn còn nhờ ông
Điện Đại Đồng hoang liêu
Cửa Bạch Thủ quạnh hiu
Khắp hoàng thành ngóng đợi
Vua về tiếng quân reo
Khu vườn lăng thiêng liêng
Vẫn quét dọn thường xuyên
Nghiệp Thái Tông hùng vĩ
Công lớn rộng vô biên
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Đã hai thu chúa ngự trên ngôi
Tháng tám nhuần, nhân buổi tốt trời
Bác Đỗ sắp đi lên mạn bắc
Để thăm nhà cửa, vợ con người.
Gặp thời binh lửa lắm gian nan
Triều nội ra quê chẳng rảnh rang
Ân hưởng đủ đầy, lòng nghĩ thẹn
Xin về lều cỏ, chiếu vua ban.
Từ giả, lạy quì trước bệ vua
Dùng dằng không dám bước lui ra
Tư phong chưa xứng tôi can gián
Vẫn sợ vua còn chút sót thưa.
Vua là minh chủ bậc trung hưng
Cai trị chu toan, bá tánh mừng
Bọn giặc Đông Hồ còn phản nghịch
Tôi thần Đỗ Phủ giận vô cùng.
Luyến lưu, gạt lệ biệt hành cung
Lòng vẫn bàng hoàng suốt dọc đường
Bao nổi lo buồn giờ chẳng dứt
Đất trời còn chất chứa đau thương.
Lầm lũi bước trên bờ đất ruộng
Tiêu điều khói bếp thoáng xa xa
Trên đường gặp những người rên rỉ
Thương tích vẫn còn máu chảy ra.
Ngoảnh mặt nhìn về huyện Phụng Tường
Bóng cờ thấp thoáng buổi chiều vương.
Trèo lên núi chập chùng hơi lạnh
Nhan nhản vũng ao ngựa uống còn.
Đi vào vùng đất trũng thôn Phần
Dào dạt sông Kinh nước đỗ tuôn
Trước mặt cọp hùm nanh vút dọa
Rống to vang vọng khắp đầu non.
Năm này cúc nở đón thu sang
Trên đất xe lăn, vết rõ ràng
Trong cảnh tịch liêu lòng phấn chấn
Nỗi niềm hứng thú vút mây ngàn.
Trái rừng phần lớn bé lon con
Quả dẻ, dây leo quấn quít tròn
Có trái đen tuyền sơn mực phủ
Có dây đầy trái đỏ như son.
Mưa móc đất trời được thấm nhuần
Của chua, chất ngọt kết nên thành
Miên man nghĩ cảnh đào nguồn cội
Vụng dại phận mình nỗi tiếc than.
Gập ghềnh rồi cũng tới Phu châu
Ẩn hiện chui hang, xuống hốc sâu
Bờ nước trợt trơn ta chậm bước
Tôi đòi vươn vịn ngọn cây cao.
Cú, chim kêu vọng đám dâu vàng
Nhốn nháo chuột đồng đứng trước hang.
Qua bãi chiến trường đêm vắng lạnh
Lập lòe xương trắng ánh trăng loang.
Trăm vạn quân binh đóng ải Đồng
Sao ngày tan rả chóng như không?
Khiến cho phân nửa dân Tần quốc
Sát hại ra ma, chẳng mả chôn.
Đám bụi Hồ, ta bị bắt giam
Khi về tóc đã ngả hoa râm
Đi liền năm đến nhà tranh cũ
Con, vợ, áo, quần, mảnh vá trăm.
Tiếng khóc thê lương vọng gió đông
Suối buồn lây cũng đỗ thành dòng
Ngày đi thằng bé cưng như trứng
Giờ thấy màu da bạc tuyết trong.
Thấy cha hờn khóc, mặt quay đi
Không tất, chân đầy cáu mốc sì
Đứng trước đầu giường hai bé gái
Áo thân cũn cỡn quá ngang đùi.
Bức biển thêu làn sóng gãy đôi
Đường thêu chỉ cũ chệch ra ngoài
Con thiên ngô với con hoàng tía
Trên áo mỏng manh, lộn ngược xuôi.
Thân già bỗng thấy dạ không yên
Bị tả, nằm rên mấy bửa liền
Trong bị phải đâu không có lụa
Cứu người qua khỏi rét triền miên.
Lại mở gói son phấn sáp bày
Ngổn ngang, xắp xếp tấm chăn dày
Ngây thơ hai gái tay lùa tóc
Tươi tỉnh hiện lên mặt vợ gầy.
Mẹ làm, con bắt chước theo làm
Rối rít luôn tay chúng điểm trang
Thỉnh thoảng chấm son tô đậm má
Kẻ mày nguệch ngoạc nét to sầm.
Được sống trở về cạnh vợ con
Như quên đói khát với hao mòn
Chúng tranh hỏi chuyện, sờ râu tóc
Ai nở nào la mắng được không?
Nghĩ về nỗi khổ sa tay giặc
Cứ mặc để cho chúng quấy rầy
Vừa mới về vui sum họp đã
Nên chưa bàn vội kế sinh nhai.
Chí tôn còn phải chịu long đong
Việc luyện quân binh há dám ngừng?
Ngước mắt xem trời giờ đã đổi
Ngồi nhìn yêu khí tỏa mông lung.
Gió lạnh từ tây bắc thổi qua
Ông vua của họ nguyện cùng ta
Đoàn quân Hồi Ngột trông u ám
Nhưng về chiến trận thạo xông pha.
Gởi giúp quân ta muôn ngựa trận
Số binh sĩ đếm được năm ngàn
Đoàn quân tuy ít mà tinh nhuệ
Phục họ kiên cường lại có gan.
Tướng dụng binh nhanh tựa cắt bay
Bắn tên phá giặc rất hăng say.
Lòng vua tin tưởng trông vào họ
Dư luận đương thời chẳng được hay.
Y Lạc giơ tay thu lại được
Tây kinh chẳng phải động binh đao
Quan quân xin tiến sâu lòng địch
Nhuệ khí diệt thù đã vút cao.
Trận nầy mở lối đến Thanh Từ
Đánh chiếm Kiệt Hằng, giặc diệt trừ
Vừa sáng trời còn sương móc phủ
Đến hồi chính khí được trùng tu.
Họa đổi từ năm Hồ giặc mất
Thành hình vào tháng Hồ giam bắt
Lẻ nào sinh mạng giặc dài lâu
Cương kỷ nhà vua đâu bỏ mặc.
Lại nhớ khi xưa mới rối ren
Giờ so thời cổ khác xa hơn
Bọn gian thần bị vằm thân nát
Đồng đảng rồi ra cũng mạng vong.
Không nghe Ân Hạ lúc suy đòi
Bao Đát bên trong tự diệt thôi.
Chu Hán có cơ hưng lại được
Tuyên Quang quả thật bậc anh tài.
Tướng quân Trần đáng mặt anh hùng
Chống giáo trung quân khí thế sung
Thiên hạ không ai so sánh được
Nhờ ông đất nước mới còn hưng.
Đại Đồng cung cũ vết thê lương
Bạch Thủ thành ngoài tịch mịch hoang
Dân ngóng xe vua về nội điện
Khí vương lại hướng đến lầu vàng.
Vườn lăng bền vững nét thiêng liêng
Dọn quét xưa nay cũng chẳng ngừng
Cơ nghiệp Thái Tông hùng vĩ lắm
Công lao gầy dựng lại tưng bừng.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Lên miền bắc
Mùa Thu Chí-Đức thứ nhì,
Nhuần hai tháng tám, sớm đi an lành.
Đỗ đi miền bắc mới đành,
Vội vàng thu xếp về nhanh thăm nhà.
Gặp thời buổi khó, đường xa,
Triều đình, thôn xóm, ai mà nhàn đâu.
Ngoảnh đầu, thẹn với ân sâu,
Chiếu cho nghỉ phép về lâu thăm nhà.
Cung vua, lễ biệt đi xa,
Nghĩ suy, lo lắng, ngẩn ra không về.
Can ngăn, cân nhắc mọi bề,
Lỡ vua sơ sót, lời quê vắng rồi.
Vua trung hưng, quả đúng thôi,
Kỷ cương nắm vững, tính thời lại siêng.
Phía đông, Hồ phản chưa yên,
Phủ này tức giận muốn điên cả người.
Hành cung, quyến luyến lệ rơi,
Đường đi, hoảng hốt, tâm thời chưa yên.
Nước non thương tích triền miên,
Bao giờ lo sợ buồn phiền hết đây.
Bước theo bờ ruộng cỏ đầy,
Xóm thưa nhà ít, khói bay tiêu điều.
Bị thương, ta gặp phần nhiều,
Vết thương máu rỉ, than kêu não nùng.
Phượng-Tường chợt ngoảnh lại trông,
Chiều, cờ ẩn hiện, lúc không thấy gì.
Núi non trùng điệp khó đi,
Vũng cho ngựa uống còn ghi dấu đầy.
Đồng Mân tựa đáy đất này,
Sông Kinh cuộn chảy ở ngay giữa đồng.
Hổ kia đứng trước ta trông,
Gầm vang, tưởng núi tét không còn lành.
Thu này cúc đã nở nhanh,
Đá còn mang dấu rành rành xe xưa.
Mây xanh gợi hứng hồn thơ,
Cảnh trông u tĩnh thật vừa lòng thay.
Núi non, quả nhỏ tí này,
Trổ ra la liệt, lẫn ngay lật vào.
Hoặc hồng, hoặc giống son sao,
Hoặc đen, thực chẳng khác nào phết sơn.
Móc mưa làm ẩm ướt hơn,
Ngọt hay đắng chát cũng đơm trái liền.
Xa xôi, nghĩ đến Đào-Nguyên,
Cảm thương vụng dại cho nên nỗi này.
Châu Phu, đàn tế còn đây,
Núi, hang, khuất hiện đổi thay nhau hoài.
Đã gần bến nước chẳng sai,
Gã hầu còn ở đầu vài ngọn cây.
Cú kêu, dâu úa vàng đầy,
Chuột đồng xúm xít cả bầy trước hang.
Đêm khuya qua chiến trường hoang,
Trăng soi sương trắng ngổn ngang lạnh lùng.
Đồng-Quan, trăm vạn quân hùng,
Một ngày tan tác, lạ lùng, buồn thay.
Khiến dân nửa nước Tần này,
Chết thành ma quỷ, nơi đây vật vờ.
Ta chìm trong gió bụi Hồ,
Kịp về, tóc đã bạc phơ mái đầu.
Về căn nhà cỏ bỏ lâu,
Vợ con, áo vá tới đâu trăm lần.
Khóc vang hòa tiếng thông gần,
Suối buồn tuôn chẩy trước sân nghẹn ngào.
Trai ta trước đẹp thế nào,
Mặt giờ trắng bệch tuyết sao sánh bằng.
Thấy cha, quay mặt khóc ròng,
Chân không, cáu ghét, chạnh lòng xót xa.
Trước giường, hai gái nhỏ ta,
Áo chằng đụp vá, phủ qua gối gầy.
Xé tranh biển sóng vá đây,
Tấm thêu, gẫy khúc vá nay khó nhìn.
Con nghê và phượng nằm im,
Đầu xuôi đuôi ngược vá lên áo này.
Thân già lại bệnh, khổ thay,
Tiêu và ói mửa vài ngày đã qua.
Biết sao! túi chẳng lụa là,
Cứu con run lạnh lấy ra tức thời.
Mở bao, toàn phấn son thôi,
Trải mền bày khắp mọi nơi trên giường.
Vợ gầy tươi tắn khác thường,
Gái khờ tự lấy lược gương chải đầu.
Làm theo mẹ, sót gì đâu,
Sáng ra trang điểm, lau lau chùi chùi.
Điểm son chốc chốc làn môi,
Chân mày vẽ đậm quá rồi, con ơi!
Sống về thấy trẻ vui ôi,
Như quên đói khát mất rồi còn đâu.
Hỏi han, con cứ kéo râu,
Hỏi ai có thể nói câu nặng lời.
Buồn trong vùng giặc một thời,
Đành cho con cái vui chơi ồn ào.
Mới về, an ủi phần nào,
Mưu sinh, biết nói được sao lúc này.
Nhà vua còn vất vả thay,
Luyện rèn binh mã, mấy ngày nghỉ ngơi!
Ngẩng nhìn trời đổi sắc rồi,
Ngồi nhìn yêu khí khắp nơi tỏa đầy.
Gió miền tây bắc về đây,
Đi theo Hồi-Hột, tràn đầy thê lương.
Vua kia hứa giúp mọi đường,
Chuyên về cưỡi ngựa và thường đánh nhanh.
Giao năm nghìn lính đánh rành.
Ngựa đưa một vạn, tập tành đã lâu.
Người ít, tinh nhuệ làm đầu,
Anh hùng, cương quyết, đâu đâu cũng mừng.
Dùng quân nhanh tựa chim ưng,
Phá tan quân địch nhanh chừng tên bay.
Nhà vua tin tưởng quá thay!...
Những lời bàn tán lúc này dẹp đi.
Thâu Y, Lạc, được tức thì,
Tây-Kinh, lấy lại có gì khó đâu.
Quan quân xin được tiến sâu,
Bao lâu rèn luyện bắt đầu tiến lên.
Thanh, Từ, tiến đánh trước tiên,
Quay về, Hằng, Kiệt, chiếm liền cho xong.
Trời quang chứa móc ở trong,
Cho nên chính khí lúc trong, khi mờ.
Họa từ năm đánh giặc Hồ,
Thế thành vào tháng giặc Hồ diệt vong.
Giặc Hồ số mạng dài chăng?!
Kỷ cương vua, chớ tưởng rằng dứt đâu.
Nhớ khi loạn lạc bắt đầu,
Tuy so truyện cổ khác nhau ít nhiều.
Gian thần, kết cục đều tiêu,
Tay chân bị đẩy đến nhiều miền xa.
Không nghe Ân, Hạ, suy à,
Đát, Bao, đều bị trong nhà giết nhau.
Hán, Chu, hưng thịnh lại mau,
Tuyên, Quang, sáng suốt như nhau, bậc hiền.
Tướng quân Trần thật oai nghiêm,
Khiến người trung liệt càng lên tinh thần.
Không ông, còn khổ người dân,
Nhờ ông, đất nước dần dần hồi sinh.
Đại-Đồng ủ rũ in hình,
Lại nhìn Bách-Thú riêng mình đứng im.
Dân kinh, cờ thúy ngóng nhìn,
Những làn khí vượng hướng kim khuyết tràn.
Vườn, lăng, thần vẫn an toàn,
Quét lau, chùi rửa, phải làm, thiếu sao?
Thái-Tông, nghiệp sáng biết bao,
Như cây hùng vĩ vút cao giữa trời...
--Bản dịch của Viên Thu – Nguyễn Minh--
Lên miền bắc
Thu năm nhị, chúa thượng lên ngôi,
Tháng tám nhuần, ngày tốt hẳn hoi.
Phần Phủ được đi lên hướng bắc,
Thăm gia đình sống chốn xa xôi.
Vào thời buổi gặp nhiều gian khó,
Triều đến quê đâu cũng rối bời.
Nghĩ thẹn ân vua nhiều đến vậy,
Chiếu ban về lại thảo đường vui.
Giã từ lạy dưới thềm vàng kính,
Cứ mãi dùng dằng chửa bước lui.
Tư cách can vua mình chẳng đủ,
Mà lòng sợ chúa vướng điều sai.
Ấy vua quả thật trung hưng nước,
Chu đáo tận tình chuyện trị cai.
Lũ giặc Đông Hồ còn phản nghịch,
Phủ này căm giận mãi khôn khuây.
Luyến lưu gạt lệ rời cung điện,
Chân bước đi còn lắm ngậm ngùi.
Trời đất mãi đau thương bất tận,
Nỗi buồn lo biết thuở nào nguôi.
Một mình lủi thủi theo bờ ruộng,
Khói bếp nhà ai vương vấn bay.
Gặp biết bao người dân hoạn nạn,
Khóc rên, thương tích máu me đầy.
Nhìn về huyện Phụng Tường xa ấy,
Cờ phướng giữa chiều phơ phất lay.
Tiến tới ngàn trùng non núi lạnh,
Gặp bao vũng nước ngựa dùng đây.
Huyện Bân vùng trũng lại vào sâu,
Sóng nước sông Kinh cứ cuộn trào.
Lừng lững cọp dàn ngay trước mặt,
Tiếng gầm lay chuyển núi xanh cao.
Đầu thu hoa cúc vàng buông trĩu,
Những dấu xe hằn đá thuở nào.
Mây biếc gợi lòng bao hứng thú,
Cảnh buồn mà cảm thấy vui sao.
Trái rừng nhỏ xíu biết bao đây,
La liệt đơm chung quả dẻ đầy.
Có thể đỏ dường tiên dược vậy,
Hoặc là tựa chấm sơn đen thui.
Ơn mưa móc thấm nhuần đầy đủ,
Ngọt đắng gì cũng kết trái thay.
Nghĩ cảnh đào nguyên vui thế ấy,
Ngán cho thân phận vụng chi này.
Gập ghềnh đàn tế Phu châu đó,
Hang hốc núi non thấp thoáng vời.
Ta xuống đến bờ sông phía dưới,
Tớ dường còn tận ngọn cây chơi.
Cú kêu vang giữa đám dâu vàng,
Chuột dẫy đầy, tay chấp trước hang.
Qua bãi chiến trường vào giữa tối,
Dưới trăng, xương trắng xóa vô vàn.
Đồng Quan trăm vạn lính tiêu hao,
Họ rã hàng nhanh chóng thế sao ?
Khiến nửa dân Tần đều thảm hại,
Hoá thành ma khổ sở dường bao.
Chính mình từng bị quân Hồ bắt,
Trốn được về quê trắng mái đầu.
Biệt thảo đường, hơn năm trở lại,
Vợ con quần áo rách lau nhau.
Gió thông hiu hắt hòa giọng khóc,
Tiếng suối nghẹn buồn u uất theo.
Thằng bé ngày nào cưng đến thế,
Da còn hơn tuyết, trắng phau phau.
Thấy cha quay mặt khóc hờn ngây,
Chẳng vớ, chân không cáu ghét đầy.
Hai gái trước giường còn đứng chực,
Chiếc váy khỏi đầu gối ngắn ngay.
Hình thêu sóng biển đều xô lệch,
Đường nét nhàu, chi chít vá may.
Phụng tía, thủy thần cùng lộn xộn,
Ngược xuôi trên váy rách khôi hài.
Thân già cảm thấy mình không ổn,
Dưới tháo, trên nôn mất mấy ngày.
Trong bọc phải nào không có lụa,
Cứu người chống giá rét hôm nay.
Gói son phấn mở ngay tường tận,
Hàng loạt bày trên thảm đủ đầy.
Thấy vợ già gầy tươi hẳn mặt,
Chải đầu, hai gái luống thơ ngây.
Học theo mẹ chúng bao nhiêu thứ,
Mài miệt điểm trang cả sáng ngày.
Lắm lúc cũng bày thoa phấn sáp,
Kẽ mày tếu táo, thật thương thay.
Được về sống với đàn con nhỏ,
Cứ tưởng chừng quên đói khát đây.
Chúng kéo râu, tranh nhau vặn hỏi,
Ai đành lòng mắng mỏ chi bây.
Nỗi buồn khi nghĩ trong tay giặc,
Nên để chúng rầy quấy dẳng dai.
Cũng mới về, vui sum họp trước,
Chưa cần bàn vội việc sinh nhai.
Đức vua còn phải long đong vậy,
Lơi việc luyện quân dễ mấy ngày?
Ngước ngắm màu trời thay đổi đó,
Ngồi nhìn yêu quái vẫn vờn xoay.
Từ tây bắc gió đông tràn đến ,
Ảm đạm theo Hồi Ngột tới nơi.
Vua chúng đã đồng tình giúp đỡ,
Giao tranh cưỡi ngựa họ đều hay.
Năm ngàn quân tiến công đưa tới,
Một vạn ngựa hùng hậu đến ngay.
Bọn chúng ít nhưng mà thiện chiến,
Thêm lòng quả cảm đáng khen đây.
Lối điều quân nhạy như chim cắt,
Phá trận dường tên lướt dạn dày.
Thánh chúa hết lòng tin tưởng họ,
Lời can gián, những bỏ ngoài tai.
Phất tay, Y Lạc thoắt thâu vào,
Vừa đánh, Tây Kinh đã đoạt mau.
Quan lính xin tràn sâu tới tấp,
Tưng bừng khí thế lại dâng cao.
Trận này mở Thanh, Từ tiêu điểm,
Từ đó xoay Hằng, Kiệt tóm thâu.
Trời biếc, móc sương trong vắt lạ,
Có hồi chính khí cũng vươn theo.
Giữa năm Hồ chuyển họa tiêu ngay,
Trong tháng cũng đành bị bắt thay.
Vận mạng họ không bền bĩ thực,
Kỷ cương vua chắc chắn còn may.
Nhớ xưa mới rối đành cam vậy,
Nay lúc tình hình khác hẳn đây.
Lũ loạn thần, băm thây chúng cả,
Bọn đồng đảng rã đám liền thôi.
Chẳng nghe lúc Hạ, Ân suy sụp ?
Bao, Đát triều đình lệnh giết ngay.
Chu, Hán cũng trung hưng được đó,
Tuyên, Quang quả thật bậc anh tài.
Tướng quân Trần dũng cảm là bao,
Vung búa lên trung liệt khí trào.
Thiên hạ như ngài chưa thấy được,
Nước non này vững chãi may sao.
Đại Đồng điện lạnh tanh buồn bã,
Bách Thú môn cô quạnh hắt hiu.
Dân chúng mãi chờ cờ chúa thượng,
Cửa vàng mong đón gió lành theo.
Viên lăng bền vững oai linh mãi,
Quét tước, cúng hầu giữ trước sau.
Cơ nghiệp Thái tông hùng vĩ quá,
Công lao xây dựng lớn dường bao.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Thu thứ hai triều vua mới lập
Tháng tám nhuần, ngày tốt tháng này
Phủ tôi phương bắc đi ngay
Về thăm gia quyến bấy rày cách xa
Gặp lúc khó thật là lo lắng
Quan tới dân đều chẳng được yên
Ngẫm mà thẹn với ơn trên
Đã cho chức tước lại kèm về quê
Trước bệ ngọc quỳ lê từ biệt
Khá lâu mà chẳng thiết bước đi
Tài ta tuy chẳng ra gì
Xem ra vua cũng có khi sai lầm
Ngài đúng là người cầm quyền bính
Việc trung hưng toan tính dầy công
Đông Hồ giặc chửa dẹp xong
Phủ này căm phẫn trong lòng khôn nguôi
Lau nước mắt bùi ngùi cất bước
Lên đường còn chứa chất bàng hoàng
Đất trời bao nỗi đau thương
Buồn rầu lo lắng dễ thường khó quên
Lủi thủi đi bước trên đồng ruộng
Khói bếp, người sao luống lưa thưa?
Gặp người ai cũng bị thương
Miệng rên, máu chảy trăm đường xót xa
Huyện Phụng Tường quay qua nhìn lại
Cờ mờ trong nắng quái chiều hôm
Leo lên núi lạnh mà dòm
Vũng cho ngựa uống hãy còn đó đây
Xuống huyện Bân này vùng đất thấp
Nước sông Kinh chảy gấp ra xa
Cọp hung dữ đứng trước ta
Tiếng gầm như xé núi ra hai đàng
Hoa cúc đầu thu đang buông rủ
Dấu xe xưa trên đá còn hằn
Gợi nhiều hứng thú mây xanh
Cảnh hoang vắng cũng vui lòng người qua
Trái dại nhiều nhưng ra nho nhỏ
Đơm lung tung với quả lật xen
Hoặc là đỏ tựa thuốc tiên
Hoặc là đen nhánh như viên mực tròn
Được thấm nhuần bao cơn mưa móc
Ngọt hay chua cũng kết trái đều
Lan man nghĩ tới suối Đào
Lại càng ngán ngẩm mình sao dại khờ
Đàn tế thần châu Phu ngất ngưởng
Núi và hang khi ẩn khi quang
Bờ cao đã đến mé sông
Mà tên đầy tớ ngang tầm ngọn cây
Trong lùm dâu vẳng bầy chim cú
Chuột chắp tay lố nhố trước hang
Đêm khuya qua bãi chiến trường
Ánh trăng lạnh lẽo chiếu xương cô hồn
Cửa Đồng quan quân hơn trăm vạn
Những người xưa sao vội rã tan
Đã làm cho nửa dân Tần
Cùng theo số kiếp làm dân ma hờ
Huống ta bị giặc Hồ chận bắt
Trốn được ra thì tóc hoa râm
Nhà tranh trở lại một năm
Vợ con đói rách loanh quanh tháng ngày
Tiếng gào khóc rừng cây vọng lại
Suối cảm thương nên nghẹn ngào trôi
Thằng con cưng nhất trên đời
Thịt da trắng nõn như trời tuyết sa
Nay quay mặt thấy cha khóc rống
Không vớ mang, chân lấm khó thương
Hai con gái nhỏ bên giường
Váy đà rút ngắn lên ngang gối rồi
Áo tranh biển không khơi sóng nước
Vì mụn chằng che khuất mất rồi
Thuỷ thần, phượng tía rất oai
Nay đem vá đụp bên ngoài váy thô
Già này bị bụng vừa làm xấu
Ói, đi tiêu mất mấy ngày đêm
Há trong bao, lụa không đem
Để cho con mặc qua cơn lạnh này?
Chăn màn lấy ra bày la liệt
Lại còn kèm thêm chút phấn son
Vợ gầy mặt sáng hẳn lên
Gái thơ chải tóc làm duyên vui cười
Bắt chước mẹ làm chơi đủ thứ
Mặc sức bôi son thử ban mai
Phấn hồng cũng trát bôi hoài
Lông mày nguệch ngoạc, vụng tay to đùng
Được sống sót bên đàn con trẻ
Vui sướng không dám kể đói mà
Vặt râu tranh hỏi chuyện ta
Ai mà lòng nỡ mắng la bây giờ
Nhớ lúc bị giặc Hồ giam lỏng
Nên mặc cho bọn chúng quấy rầy
Mới về sum họp trước thôi
Việc làm sẽ tính hạ hồi bàn sau
Đức vua còn đang sầu gió bụi
Luyện quân binh chẳng thiếu ngày nào
Ngửa trông khí tượng trên cao
Hung tinh bàng bạc đang vào trời trong
Gió lạnh thổi từ phương tây bắc
Mang theo quân Hồi Ngột tiến ra
Vua Hồi thuận giúp vua ta
Họ đi ngựa giỏi, rất là hiên ngang
Họ đưa sang năm ngàn binh tướng
Và một muôn ngựa giống chạy nhanh
Họ tuy ít, nhưng hùng anh
Nơi nơi nể phục họ giành chiến công
Binh tiến nhanh như bành chim ó
Phá tan thành mau tựa tên bay
Lòng vua tin tưởng quân này
Trong lòng quyết bỏ ngoài tai lắm lời
Một vẫy tay thu hồi Y, Lạc
Tây kinh thì vừa phát đã thâu
Quan quân xin tiến thêm sâu
Đặng đem nhuệ khí ngõ hầu phản công
Thanh, Từ dựa thế đông lấy được
Hằng, Kiệt thì cũng tước được thôi
Điềm cho sương móc đầy trời
Ấy là chính khí gặp thời thắng to
Hồ tiêu vong trong năm thế chuyển
Tình thế này sẽ chiến thắng mau
Vận Hồ không thịnh được lâu
Kỷ cương đất nước dễ đâu lu mờ
Nhớ năm xưa khi vừa loạn lạc
Tình thế nay đã khác lắm rồi
Gian thần đã chết hẳn hoi
Huống hồ đồng đảng cũng hồi tan hoang
Nhà Hạ, Ân suy vong được biết
Mang họ Bao, họ Đát hành hình
Nhà Chu, nhà Hán trung hưng
Cũng nhờ Quang Vũ, Tuyên Vương góp phần
Nhờ tướng quân họ Trần dũng mãnh
Giơ cao cây búa mạnh lập công
Không ai làm được như ông
Nhờ ông đất nước mênh mông vẫn còn
Điện Đại Đồng cô đơn ủ rũ
Trước cửa cung Bạch Thú vắng không
Ngọn cờ hoa thuý dân trông
Tốt lành khí thế hướng tòng kinh đô
Nơi Viên lăng phụng thờ thần khí
Việc trùng tu, hương khói chuyên cần
Thái tông dựng nghiệp ban ân
Như cây cổ thụ vút tầng trời cao!
 
Top Bottom