Bần Phụ Từ
Nguyên tác: Nguyên Kết
貧婦詞
元結
誰知苦貧夫,
家有愁怨妻。
請君聽其詞,
能不為酸淒。
所憐抱中兒,
不如山下麑。
空念庭前地,
化為人吏蹊。
出門望山澤,
回頭心復迷。
何時見府主,
長跪向之啼。
Bần Phụ Từ
Nguyên Kết
Thuỳ tri khổ bần phu,
Gia hữu sầu oán thê.
Thỉnh quân thính kỳ từ,
Năng bất vị toan tê.
Sở liên bão trung nhi,
Bất như sơn hạ nghê.
Không niệm đình tiền địa,
Hoá vi nhân lại khê.
Xuất môn vọng sơn trạch,
Hồi đầu tâm phục mê.
Hà thời kiến phủ chủ,
Trường quỵ hướng chi đề.
Dịch nghĩa:
Lời Người Vợ Nhà Nghèo
Ai biết được nỗi khổ của người chồng nghèo,
Khi trong nhà có bà vợ [luôn mồm] oán trách buồn rầu.
Xin ông hãy lắng nghe lời than của bà ấy,
Khó mà không thấy cay đắng, thê lương:
Ôm con thơ trong lòng,
[bà than con bà] không bằng con hươu non [vừa lọt lòng mẹ đã biết đi] dưới núi.
Khi không cũng để ý rằng khu đất trước cửa,
Bị người ta và viên chức đi mòn.
Ra cửa nhìn về núi và đầm ở xa xa,
Quay đầu trong lòng lại mê loạn.
Khi nào gặp quan phủ,
Bà sẽ quỳ rạp hướng về ông mà kêu khóc [về việc ấy].
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Ai biết được chồng nghèo nỗi khổ
Khi trong nhà vợ cứ oán than
Xin ông nghe kể nguồn cơn
Khó mà không thấy tủi hờn, đắng cay
Ôm trong lòng con thơ còn ẵm
Bà than không bằng những hươu non
Trước nhà có mảnh đất con
Bà than nha lại đi mòn dấu chân
Ra cửa ngóng trông đầm gần núi
Vừa quay đầu lại thấy hồn mê
Bao giờ quan phủ ghé về
Rập mình phục lạy tỉ tê tâu trình.
--Bản dịch của Viên Thu--
Nỗi khổ chồng nghèo ai biết đâu,
Trong nhà vợ oán trách âu sầu.
Xin ông nghe tiếng than bà ấy,
Để thấy rằng cay đắng biết bao.
Con mọn ôm trong lòng thổn thức,
Sánh con hươu nhỏ dưới non nào.
Khi không thắc mắc sân đàng trước,
Sao lắm người qua lại tổn hao.
Ra cửa ngắm nhìn đầm núi thẳm,
Quay vào chợt hoảng loạn tào lao.
Bao giờ quan phủ về đây thử,
Người ấy rạp mình khóc lóc tâu.
Nguyên tác: Nguyên Kết
貧婦詞
元結
誰知苦貧夫,
家有愁怨妻。
請君聽其詞,
能不為酸淒。
所憐抱中兒,
不如山下麑。
空念庭前地,
化為人吏蹊。
出門望山澤,
回頭心復迷。
何時見府主,
長跪向之啼。
Bần Phụ Từ
Nguyên Kết
Thuỳ tri khổ bần phu,
Gia hữu sầu oán thê.
Thỉnh quân thính kỳ từ,
Năng bất vị toan tê.
Sở liên bão trung nhi,
Bất như sơn hạ nghê.
Không niệm đình tiền địa,
Hoá vi nhân lại khê.
Xuất môn vọng sơn trạch,
Hồi đầu tâm phục mê.
Hà thời kiến phủ chủ,
Trường quỵ hướng chi đề.
Dịch nghĩa:
Lời Người Vợ Nhà Nghèo
Ai biết được nỗi khổ của người chồng nghèo,
Khi trong nhà có bà vợ [luôn mồm] oán trách buồn rầu.
Xin ông hãy lắng nghe lời than của bà ấy,
Khó mà không thấy cay đắng, thê lương:
Ôm con thơ trong lòng,
[bà than con bà] không bằng con hươu non [vừa lọt lòng mẹ đã biết đi] dưới núi.
Khi không cũng để ý rằng khu đất trước cửa,
Bị người ta và viên chức đi mòn.
Ra cửa nhìn về núi và đầm ở xa xa,
Quay đầu trong lòng lại mê loạn.
Khi nào gặp quan phủ,
Bà sẽ quỳ rạp hướng về ông mà kêu khóc [về việc ấy].
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Ai biết được chồng nghèo nỗi khổ
Khi trong nhà vợ cứ oán than
Xin ông nghe kể nguồn cơn
Khó mà không thấy tủi hờn, đắng cay
Ôm trong lòng con thơ còn ẵm
Bà than không bằng những hươu non
Trước nhà có mảnh đất con
Bà than nha lại đi mòn dấu chân
Ra cửa ngóng trông đầm gần núi
Vừa quay đầu lại thấy hồn mê
Bao giờ quan phủ ghé về
Rập mình phục lạy tỉ tê tâu trình.
--Bản dịch của Viên Thu--
Nỗi khổ chồng nghèo ai biết đâu,
Trong nhà vợ oán trách âu sầu.
Xin ông nghe tiếng than bà ấy,
Để thấy rằng cay đắng biết bao.
Con mọn ôm trong lòng thổn thức,
Sánh con hươu nhỏ dưới non nào.
Khi không thắc mắc sân đàng trước,
Sao lắm người qua lại tổn hao.
Ra cửa ngắm nhìn đầm núi thẳm,
Quay vào chợt hoảng loạn tào lao.
Bao giờ quan phủ về đây thử,
Người ấy rạp mình khóc lóc tâu.