Bề Cổ Hành
Nguyên tác: Vi Ứng Vật
鼙鼓行
韋應物
淮海生雲暮慘淡,
廣陵城頭鼙鼓暗。
寒聲坎坎風動邊,
忽似孤城萬里絕,
四望無人煙﹔
又如虜騎截遼水,
胡馬不食仰朔天。
座中亦有燕趙士,
聞鼙不語客心死。
何況鰥孤火絕無晨炊,
獨婦夜泣官有期。
Bề Cổ Hành
Vi Ứng Vật
Hoài Hải sinh vân mộ thảm đạm,
Quảng Lăng thành đầu bề cổ ám.
Hàn thanh khảm khảm phong động biên,
Hốt tự cô thành vạn lý tuyệt,
Tứ vọng vô nhân yên,
Hựu như lũ kỵ tiệt Liêu thủy,
Hồ mã bất thực ngưỡng sóc thiên.
Tòa trung diệc hữu Yên Triệu sĩ,
Văn thanh bất ngữ khách tâm tử.
Hà huống quan cô hỏa tuyệt vô thần xuy,
Độc phụ dạ khấp quan hữu kỳ.
Chú thích: 1/ Hoài Hải, phiếm chỉ Quảng Lăng, vì bắc có sông Hoài, đông có biển đông. 2/ Quảng Lăng, tên đất, nay là huyện Dưong Châu tỉnh Giang Tô. 2/ Triệu, Yên: tên hai nước cũ, nay là tỉnh Hà Bắc. Loạn An & Sử xuất phát từ đây. Khi loạn tan, tàn quân Hồ lạc xuống phía nam, cụ thể là trong thành Quảng Lăng này. 3/ Tác giả VUV mượn vịnh trống trận mà mô tả cảnh tượng Quảng Lăng sau loạn An & Sử…
--Dịch nghĩa:--
Bài Hành Cho Trống Trận
Mây chiều trên Hoài Hải ảm đạm ;
tiếng trống trận từ thành Quảng Lăng nghe u ám .
Âm thanh thùng thùng lạnh lẽo gió đưa đi khắp nơi,
bỗng từ thành lẻ loi vang xa vạn dặm mới dứt,
nhìn bốn bề không thấy có khói bếp ;
lại nói bọn tàn quân [An & Sử] vượt sông Liêu [tới đây],
ngựa Hồ bỏ ăn hướng về phương trời bắc [mà hí hoài].
Trong bọn có nhiều đứa ở đất Yên, Triệu ;
chúng nghe trống [nhớ khi chiến thắng] mà tan nát cõi lòng.
Nói chi những kẻ cô đơn bếp lạnh vì không có gạo nấu cơm buổi sáng,
quả phụ khóc trong đêm vì tới hạn không có thóc nạp thuế lên quan.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Trên Hoài Hải mây chiều ảm đạm
Trống Quảng Lăng u ám lòng người
Gió đưa đi khắp mọi nơi
Vang xa vạn dặm cuối trời mới ngưng
Nhìn bốn phía tuyệt không khói bếp
Lại nói tàn quân giặc vượt Liêu
Ngựa Hồ hướng bắc hí kêu
Người Yên, Triệu cũng ít nhiều trong quân
Chúng nghe trống mà lòng tan nát
Nói chi dân bếp tắt không cơm
Suốt đêm quả phụ khóc thầm
Thuế đà tới hạn, nộp quan lấy gì ?
--Bản dịch của Viên Thu--
Mây chiều Hoài hải ảm buồn giăng,
Trống trận dập dồn tự Quảng lăng.
Lạnh lẽo gió đưa rền khắp chốn,
Từ thành cô lẽ dặm ngàn dâng.
Bốn bề khói bếp nào đâu thấy,
Nghe vượt sông Liêu địch tiến gần.
Nhớ bắc ngựa Hồ rầm rĩ hí,
Dân Yên lính Triệu cũng tòng quân.
Nát lòng nghe trống rền vang dội,
Dân thảm không cơm,lửa lụi dần
Cô phụ đêm dài thầm khóc lóc,
Thuế quan đến hạn biết đâu lần?
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
(thể hát nói )
Trời Hoài Hải mây chiều ảm đạm
Thành Quảng Lăng u ám trống rung
Gió ngoài biên âm lạnh thùng thùng
Từ thành lẻ bay muôn trùng bỗng dứt tuyệt.
Nhìn bốn phiá không làn khói bếp
Bọn kỵ binh thua thiệt vượt sông Liêu
Ngựa bỏ ăn ngóng trời bắc tiêu điều
Trong bọn có nhiều người Yên Triệu.
Nghe tiếng trống lòng đau miệng mếu
Kẻ cô đơn sáng hết gạo bếp lửa tàn
Khóc than chẳng thóc nộp quan!!!
Nguyên tác: Vi Ứng Vật
鼙鼓行
韋應物
淮海生雲暮慘淡,
廣陵城頭鼙鼓暗。
寒聲坎坎風動邊,
忽似孤城萬里絕,
四望無人煙﹔
又如虜騎截遼水,
胡馬不食仰朔天。
座中亦有燕趙士,
聞鼙不語客心死。
何況鰥孤火絕無晨炊,
獨婦夜泣官有期。
Bề Cổ Hành
Vi Ứng Vật
Hoài Hải sinh vân mộ thảm đạm,
Quảng Lăng thành đầu bề cổ ám.
Hàn thanh khảm khảm phong động biên,
Hốt tự cô thành vạn lý tuyệt,
Tứ vọng vô nhân yên,
Hựu như lũ kỵ tiệt Liêu thủy,
Hồ mã bất thực ngưỡng sóc thiên.
Tòa trung diệc hữu Yên Triệu sĩ,
Văn thanh bất ngữ khách tâm tử.
Hà huống quan cô hỏa tuyệt vô thần xuy,
Độc phụ dạ khấp quan hữu kỳ.
Chú thích: 1/ Hoài Hải, phiếm chỉ Quảng Lăng, vì bắc có sông Hoài, đông có biển đông. 2/ Quảng Lăng, tên đất, nay là huyện Dưong Châu tỉnh Giang Tô. 2/ Triệu, Yên: tên hai nước cũ, nay là tỉnh Hà Bắc. Loạn An & Sử xuất phát từ đây. Khi loạn tan, tàn quân Hồ lạc xuống phía nam, cụ thể là trong thành Quảng Lăng này. 3/ Tác giả VUV mượn vịnh trống trận mà mô tả cảnh tượng Quảng Lăng sau loạn An & Sử…
--Dịch nghĩa:--
Bài Hành Cho Trống Trận
Mây chiều trên Hoài Hải ảm đạm ;
tiếng trống trận từ thành Quảng Lăng nghe u ám .
Âm thanh thùng thùng lạnh lẽo gió đưa đi khắp nơi,
bỗng từ thành lẻ loi vang xa vạn dặm mới dứt,
nhìn bốn bề không thấy có khói bếp ;
lại nói bọn tàn quân [An & Sử] vượt sông Liêu [tới đây],
ngựa Hồ bỏ ăn hướng về phương trời bắc [mà hí hoài].
Trong bọn có nhiều đứa ở đất Yên, Triệu ;
chúng nghe trống [nhớ khi chiến thắng] mà tan nát cõi lòng.
Nói chi những kẻ cô đơn bếp lạnh vì không có gạo nấu cơm buổi sáng,
quả phụ khóc trong đêm vì tới hạn không có thóc nạp thuế lên quan.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Trên Hoài Hải mây chiều ảm đạm
Trống Quảng Lăng u ám lòng người
Gió đưa đi khắp mọi nơi
Vang xa vạn dặm cuối trời mới ngưng
Nhìn bốn phía tuyệt không khói bếp
Lại nói tàn quân giặc vượt Liêu
Ngựa Hồ hướng bắc hí kêu
Người Yên, Triệu cũng ít nhiều trong quân
Chúng nghe trống mà lòng tan nát
Nói chi dân bếp tắt không cơm
Suốt đêm quả phụ khóc thầm
Thuế đà tới hạn, nộp quan lấy gì ?
--Bản dịch của Viên Thu--
Mây chiều Hoài hải ảm buồn giăng,
Trống trận dập dồn tự Quảng lăng.
Lạnh lẽo gió đưa rền khắp chốn,
Từ thành cô lẽ dặm ngàn dâng.
Bốn bề khói bếp nào đâu thấy,
Nghe vượt sông Liêu địch tiến gần.
Nhớ bắc ngựa Hồ rầm rĩ hí,
Dân Yên lính Triệu cũng tòng quân.
Nát lòng nghe trống rền vang dội,
Dân thảm không cơm,lửa lụi dần
Cô phụ đêm dài thầm khóc lóc,
Thuế quan đến hạn biết đâu lần?
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
(thể hát nói )
Trời Hoài Hải mây chiều ảm đạm
Thành Quảng Lăng u ám trống rung
Gió ngoài biên âm lạnh thùng thùng
Từ thành lẻ bay muôn trùng bỗng dứt tuyệt.
Nhìn bốn phiá không làn khói bếp
Bọn kỵ binh thua thiệt vượt sông Liêu
Ngựa bỏ ăn ngóng trời bắc tiêu điều
Trong bọn có nhiều người Yên Triệu.
Nghe tiếng trống lòng đau miệng mếu
Kẻ cô đơn sáng hết gạo bếp lửa tàn
Khóc than chẳng thóc nộp quan!!!