Bi Thanh Bản
Nguyên tác: Đỗ Phủ
悲青板
杜甫
我軍青板在東門
天寒飲馬太白窟
黃頭奚兒日向西
數騎彎弓敢馳突
山雪河冰野蕭瑟
青是烽煙白是骨
焉得附書與我軍
忍待明春莫倉卒
Bi Thanh Bản
Ngã quân Thanh Bản tại đông môn
Thiên hàn ẩm mã Thái bạch quật
Hoàng đầu Hề nhi nhật hướng tây
Sổ kỵ loan cung cảm trì đột
Sơn tuyết hà băng dã tiêu sắt
Thanh thị phong yên, bạch thị cốt
Diên đắc phụ thư dữ ngã quân
Nhẫn đãi minh xuân mạc thảng thốt.
--Dich nghĩa:--
(thương [chiến sĩ ở] Thanh Bản)
(quân ta dồn về cửa đông thành Thanh Bản)
(trời lạnh, ngựa uống nước ở vũng Thái Bạch)
(xế chiều, giặc Hề thuộc bộ tộc Hoàng đầu)
(vài đứa giương cung xốc ngựa chạy tới [khiêu chiến])
(tuyết phủ núi, sông đóng băng, đồng cỏ tiêu điều)
(khói trận xanh xanh, xương hoang trăng trắng)
(ví như được gửi thư cho quân ta)
([nhắn] ráng chờ sang xuân, chớ vội [ra đánh])
Ghi chú: Đỗ Phủ làm bài này cảm thương chiến sĩ ở thành Thanh Bản do tướng Phòng Quán chỉ huy đang đương đầu với phiến quân của An Lộc Sơn.
SongNguyễn HànTú
Thương Quân Trấn Đóng Thanh Bản
Quân ta đóng vùng cửa đông Thanh Bản
Ngựa cầm hơi nước vũng Thái giá băng
Trời nhá nhem, nhóm bộ tộc Đầu Vàng
Sai vài đứa soải vó câu quấy rối
Núi tuyết phủ, sông băng, đồng cằn cỗi
Giữa trắng xanh lẫn khói trận, xương người
Ước gì thư ta gửi được tới nơi
Khuyên hãy đợi sang xuân trời nắng ấm.
-- Bản dịch của Nguyễn phước Hậu --
Trú quân Thanh Bản cửa đông
Rét căm Thái Bạch ngựa dùng nước khe
Xế chiều lính kỵ vàng Hề
Giương cung xông ngựa liệu bề tấn công
Xanh là khói, trắng là xương
Sông băng, núi tuyết ,cánh đồng tha ma
Ước gì thư đến quân ta,
Hãy kiên nhẫn đợi xuân ra quân liền .
-- Bản dịch của Nguyễn Minh --
Quân ta đóng tại cửa Đông
Ngựa uống Thái Bạch khúc sông đục ngầu
Giặc Hề thuộc tộc Hoàng Đầu
Giương cung xốc ngựa ra mầu thị oai
Sông băng núi tuyết cỏ gai
Xanh mờ khói trận, xương cài trắng tinh
Ví thư gửi được quân mình
Khuyên chờ xuân tới xuất binh tốt trời .
-- Bản dịch của Phụng Hà --
Thanh Bản, quân ta trú cửa đông,
Nước khe ngựa uống lạnh như đồng.
Kỵ Hề thưa thớt như bóng xế,
Cũng vác cung tên doạ xung phong.
Sông băng núi tuyết đồng xơ xác,
Xương trắng cốt khô khói mờ xông.
Ước sao thư đến quân ta được,
Rán đợi tiết xuân hãy phản công.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Thương trận Thanh-Bản
Cửa đông Thanh-Bản đóng quân,
Ngựa khe Thái-Bạch uống gần đóng băng.
Về chiều, rợ có hay chăng,
Vài tên lính kỵ hung hăng đánh liều.
Sông băng, núi tuyết, tiêu điều,
Xanh là khói trận, trắng nhiều là xương.
Nhắn quân ta -nếu có đường-:
‘Sang Xuân, ráng đợi, địch đương yếu dần’...
--Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu--
Thanh Bản quân ta giữ cửa đông,
Lạnh trời, ngựa uống nước suối bạc.
Bọn giặc Hoàng Đầu lúc xế tây,
Giương cung vài đứa xông trận mạc.
Sông băng, núi tuyết, đồng xơ xác,
Xanh ấy khói lang trắng xương lạc.
Ước gì thư gửi tới quân ta,
Chớ vội, sang xuân bày trận khác !
--Bản dịch của Phan Ngọc--
Nơi Thanh Bản, cửa đông, quân sĩ đóng,
Đào núi cho ngựa uống, rét căm căm.
Hướng về Tây quân Hồ cứ lăm lăm,
Vài lính kị cũng cung cầm xông tới.
Núi tuyết, sông băng, cánh đồng trơ trọi,
Nơi xanh là khói trận, trằng là xương.
Ai giúp ta mang thư tới chiến trường,
Hãy đợi sang năm, xin đừng nóng vội.
--Bản dịch của Phạm Doanh--
Miền đông Thanh-bản quân ta đóng,
Suối Thái-bạch ngựa uống lạnh run.
Giặc Đầu vàng, lúc ngày tàn,
Vài tên cưỡi ngựa xông càn hung hăng.
Núi tuyết vời sông băng, đồng vắng,
Trận: khói xanh, xương trắng bao gò.
Ước gì thư tới quân ta,
Tấn công gắng đợi mùa khô đúng thời!
-- Bản dịch của Lâm trung Phú --
Quân ta trú cửa đông Thanh Bản
Khe Thái trời hàn ngựa uống run !
Bộ tộc Hề - Hoàng Đầu mỗi tối
Vài tên lính thúc ngựa giương cung !
Sông băng núi tuyết ruộng hoang vắng
Khói báo vờn xanh xương trắng vùng !
Thư gửi quân mình nhận được nhỉ ?
Hãy chờ xuân tới , vội chi bung !!!
Nguyên tác: Đỗ Phủ
悲青板
杜甫
我軍青板在東門
天寒飲馬太白窟
黃頭奚兒日向西
數騎彎弓敢馳突
山雪河冰野蕭瑟
青是烽煙白是骨
焉得附書與我軍
忍待明春莫倉卒
Bi Thanh Bản
Ngã quân Thanh Bản tại đông môn
Thiên hàn ẩm mã Thái bạch quật
Hoàng đầu Hề nhi nhật hướng tây
Sổ kỵ loan cung cảm trì đột
Sơn tuyết hà băng dã tiêu sắt
Thanh thị phong yên, bạch thị cốt
Diên đắc phụ thư dữ ngã quân
Nhẫn đãi minh xuân mạc thảng thốt.
--Dich nghĩa:--
(thương [chiến sĩ ở] Thanh Bản)
(quân ta dồn về cửa đông thành Thanh Bản)
(trời lạnh, ngựa uống nước ở vũng Thái Bạch)
(xế chiều, giặc Hề thuộc bộ tộc Hoàng đầu)
(vài đứa giương cung xốc ngựa chạy tới [khiêu chiến])
(tuyết phủ núi, sông đóng băng, đồng cỏ tiêu điều)
(khói trận xanh xanh, xương hoang trăng trắng)
(ví như được gửi thư cho quân ta)
([nhắn] ráng chờ sang xuân, chớ vội [ra đánh])
Ghi chú: Đỗ Phủ làm bài này cảm thương chiến sĩ ở thành Thanh Bản do tướng Phòng Quán chỉ huy đang đương đầu với phiến quân của An Lộc Sơn.
SongNguyễn HànTú
Thương Quân Trấn Đóng Thanh Bản
Quân ta đóng vùng cửa đông Thanh Bản
Ngựa cầm hơi nước vũng Thái giá băng
Trời nhá nhem, nhóm bộ tộc Đầu Vàng
Sai vài đứa soải vó câu quấy rối
Núi tuyết phủ, sông băng, đồng cằn cỗi
Giữa trắng xanh lẫn khói trận, xương người
Ước gì thư ta gửi được tới nơi
Khuyên hãy đợi sang xuân trời nắng ấm.
-- Bản dịch của Nguyễn phước Hậu --
Trú quân Thanh Bản cửa đông
Rét căm Thái Bạch ngựa dùng nước khe
Xế chiều lính kỵ vàng Hề
Giương cung xông ngựa liệu bề tấn công
Xanh là khói, trắng là xương
Sông băng, núi tuyết ,cánh đồng tha ma
Ước gì thư đến quân ta,
Hãy kiên nhẫn đợi xuân ra quân liền .
-- Bản dịch của Nguyễn Minh --
Quân ta đóng tại cửa Đông
Ngựa uống Thái Bạch khúc sông đục ngầu
Giặc Hề thuộc tộc Hoàng Đầu
Giương cung xốc ngựa ra mầu thị oai
Sông băng núi tuyết cỏ gai
Xanh mờ khói trận, xương cài trắng tinh
Ví thư gửi được quân mình
Khuyên chờ xuân tới xuất binh tốt trời .
-- Bản dịch của Phụng Hà --
Thanh Bản, quân ta trú cửa đông,
Nước khe ngựa uống lạnh như đồng.
Kỵ Hề thưa thớt như bóng xế,
Cũng vác cung tên doạ xung phong.
Sông băng núi tuyết đồng xơ xác,
Xương trắng cốt khô khói mờ xông.
Ước sao thư đến quân ta được,
Rán đợi tiết xuân hãy phản công.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Thương trận Thanh-Bản
Cửa đông Thanh-Bản đóng quân,
Ngựa khe Thái-Bạch uống gần đóng băng.
Về chiều, rợ có hay chăng,
Vài tên lính kỵ hung hăng đánh liều.
Sông băng, núi tuyết, tiêu điều,
Xanh là khói trận, trắng nhiều là xương.
Nhắn quân ta -nếu có đường-:
‘Sang Xuân, ráng đợi, địch đương yếu dần’...
--Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu--
Thanh Bản quân ta giữ cửa đông,
Lạnh trời, ngựa uống nước suối bạc.
Bọn giặc Hoàng Đầu lúc xế tây,
Giương cung vài đứa xông trận mạc.
Sông băng, núi tuyết, đồng xơ xác,
Xanh ấy khói lang trắng xương lạc.
Ước gì thư gửi tới quân ta,
Chớ vội, sang xuân bày trận khác !
--Bản dịch của Phan Ngọc--
Nơi Thanh Bản, cửa đông, quân sĩ đóng,
Đào núi cho ngựa uống, rét căm căm.
Hướng về Tây quân Hồ cứ lăm lăm,
Vài lính kị cũng cung cầm xông tới.
Núi tuyết, sông băng, cánh đồng trơ trọi,
Nơi xanh là khói trận, trằng là xương.
Ai giúp ta mang thư tới chiến trường,
Hãy đợi sang năm, xin đừng nóng vội.
--Bản dịch của Phạm Doanh--
Miền đông Thanh-bản quân ta đóng,
Suối Thái-bạch ngựa uống lạnh run.
Giặc Đầu vàng, lúc ngày tàn,
Vài tên cưỡi ngựa xông càn hung hăng.
Núi tuyết vời sông băng, đồng vắng,
Trận: khói xanh, xương trắng bao gò.
Ước gì thư tới quân ta,
Tấn công gắng đợi mùa khô đúng thời!
-- Bản dịch của Lâm trung Phú --
Quân ta trú cửa đông Thanh Bản
Khe Thái trời hàn ngựa uống run !
Bộ tộc Hề - Hoàng Đầu mỗi tối
Vài tên lính thúc ngựa giương cung !
Sông băng núi tuyết ruộng hoang vắng
Khói báo vờn xanh xương trắng vùng !
Thư gửi quân mình nhận được nhỉ ?
Hãy chờ xuân tới , vội chi bung !!!