Biệt Phòng thái uý mộ
Nguyên tác: Đỗ Phủ
五言律詩
杜甫
別房太尉墓
他鄉復行役,
駐馬別孤墳。
近淚無乾土,
低空有斷雲。
對棋陪謝傅,
把劍覓徐君。
唯見林花落,
鶯啼送客聞。
Biệt Phòng thái uý mộ
Tha hương phục hành dịch
Trú mã biệt cô phần
Cận lệ vô can thổ
Đê không hữu đoạn vân
Đối kỳ bồi Tạ Truyện
Bả kiếm mịch Từ Quân
Duy kiến lâm hoa lạc
Oanh đề tống khách văn
--Dịch Nghĩa:--
Từ giã mộ Phòng thái uý
Ta đi công cán nơi quê người
Dừng ngựa giã từ nấm mồ lẻ loi
Gần nước mắt,không có đất khô ráo
Dưới vòm trời có những đám mây rời rạc
Đánh cờ với Tạ Truyện
Mang gươm tìm Từ Quân
Chỉ thấy hoa rừng rụng
Nghe oanh hót tiễn đưa người
--Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu--
Lại ra miền đất khách
Dừng ngựa giã cô phần
Mây ủ dăng trời thấp
Đất hoen ướt lệ gần
Đánh cờ hầu Tạ Truyện
Mang kiếm viếng Tạ Quân
Chỉ thấy hoa rừng rụng
Con oanh hót tiễn chân
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Ta đi công cán đến quê người
Dừng ngựa giã từ mộ lẻ lọi.
Nước mắt nhạt nhòa bờ đất ướt
Vòm trời đứt đoạn đám mây trôi.
Mang gươm tìm viếng Từ Quân vắng
Bồi tiếp tượng kỳ Tạ Truyện thôi
Chỉ thấy hoa rừng rơi lả chả
Lặng nghe oanh hót tiễn đưa người.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Lại đi công tác vùng xa lạ
Dùng ngựa giã từ mộ bạn ta
Dòng lệ khôn ngăn rơi ướt đất
Đám mây lẻ lẻ chân trời xa
Hầu cờ Tạ Truyện tài nghiêng ngửa
Luận kiếm Từ Quân rốt cuộc hòa
Chỉ thấy hoa rừng rơi lác đác
Chim oanh như hót tiễn chào ta.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Từ giã mộ Thái-úy Phòng
Lại đi công vụ xa vời,
Nấm mồ đơn lẻ: ngựa, người đứng im.
Chưa khô, đất lệ còn in,
Bầu trời thấp xuống, mây liền tan đi.
Cờ, hầu Tạ-Truyện, có khi,
Từ-Quân, đến viếng, kiếm thì dắt lưng.
Thấy hoa rơi rụng trong rừng,
Nghe oanh tiễn khách vang lừng bên tai...
-- Bản dịch của Viên Thu --
Từ giả mộ Phòng thái úy
Rời quê trở lại chốn biên quân,
Xe ngựa dừng chân biệt mộ phần.
Ướt đất,lệ tuôn dòng lả chả
Thấp trời,mây lướt giải phân vân.
Khắp nơi mang kiếm tìm Từ hữu,
Bao độ hầu cờ tiếp Tạ quân.
Chỉ thấy hoa rừng rơi phất phới,
Nghe chim tiễn khách hót ân cần.
--Bản dịch của Phan Ngọc--
Đi hành dịch xa quê, tôi lại,
Dừng ngựa đây, xuống lạy mộ trơ.
Cúi đầu khóc nấm đất khô,
Ngửng lên mây bạc lững lờ ngừng bay.
Được hầu ngài bên cờ thủa nọ,
Kiếm giờ đây để đó tặng ai.
Rừng dày, hoa rụng tả tơi,
Oanh kêu tiễn khách bên tai gợi sầu.
--Bản dịch của Phạm Doanh--
Quê người, vẫn lết chân,
Mộ vắng, ngựa tời gần.
Trời quang, đám mây tàn.
Đánh cờ tiếp Tạ phó,
Treo kiếm gửi Từ quân.
Chỉ thấy hoa rừng rụng,
Tiễn khách oanh hót ran.
-- Bản dịch của Lâm trung Phú --
Xa quê thêm dịch chuyển
Dừng ngựa biệt cô phần !
Lệ đẫm , đất không ráo
Trời trong , mây cách phân .
Cuộc cờ hầu Tạ Truyện
Mang kiếm học Từ Quân !
Riêng thấy hoa rừng rụng
Nghe oanh hót tiễn chân !!!
-- English --
Five-character-regular-verse
Du Fu
ON LEAVING THE TOMB OF PREMIER FANG
Having to travel back now from this far place,
I dismount beside your lonely tomb.
The ground where I stand is wet with my tears;
The sky is dark with broken clouds....
I who played chess with the great Premier
Am bringing to my lord the dagger he desired.
But I find only petals falling down,
I hear only linnets answering.
Nguyên tác: Đỗ Phủ

五言律詩
杜甫
別房太尉墓
他鄉復行役,
駐馬別孤墳。
近淚無乾土,
低空有斷雲。
對棋陪謝傅,
把劍覓徐君。
唯見林花落,
鶯啼送客聞。
Biệt Phòng thái uý mộ
Tha hương phục hành dịch
Trú mã biệt cô phần
Cận lệ vô can thổ
Đê không hữu đoạn vân
Đối kỳ bồi Tạ Truyện
Bả kiếm mịch Từ Quân
Duy kiến lâm hoa lạc
Oanh đề tống khách văn
--Dịch Nghĩa:--
Từ giã mộ Phòng thái uý
Ta đi công cán nơi quê người
Dừng ngựa giã từ nấm mồ lẻ loi
Gần nước mắt,không có đất khô ráo
Dưới vòm trời có những đám mây rời rạc
Đánh cờ với Tạ Truyện
Mang gươm tìm Từ Quân
Chỉ thấy hoa rừng rụng
Nghe oanh hót tiễn đưa người
--Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu--
Lại ra miền đất khách
Dừng ngựa giã cô phần
Mây ủ dăng trời thấp
Đất hoen ướt lệ gần
Đánh cờ hầu Tạ Truyện
Mang kiếm viếng Tạ Quân
Chỉ thấy hoa rừng rụng
Con oanh hót tiễn chân
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Ta đi công cán đến quê người
Dừng ngựa giã từ mộ lẻ lọi.
Nước mắt nhạt nhòa bờ đất ướt
Vòm trời đứt đoạn đám mây trôi.
Mang gươm tìm viếng Từ Quân vắng
Bồi tiếp tượng kỳ Tạ Truyện thôi
Chỉ thấy hoa rừng rơi lả chả
Lặng nghe oanh hót tiễn đưa người.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Lại đi công tác vùng xa lạ
Dùng ngựa giã từ mộ bạn ta
Dòng lệ khôn ngăn rơi ướt đất
Đám mây lẻ lẻ chân trời xa
Hầu cờ Tạ Truyện tài nghiêng ngửa
Luận kiếm Từ Quân rốt cuộc hòa
Chỉ thấy hoa rừng rơi lác đác
Chim oanh như hót tiễn chào ta.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Từ giã mộ Thái-úy Phòng
Lại đi công vụ xa vời,
Nấm mồ đơn lẻ: ngựa, người đứng im.
Chưa khô, đất lệ còn in,
Bầu trời thấp xuống, mây liền tan đi.
Cờ, hầu Tạ-Truyện, có khi,
Từ-Quân, đến viếng, kiếm thì dắt lưng.
Thấy hoa rơi rụng trong rừng,
Nghe oanh tiễn khách vang lừng bên tai...
-- Bản dịch của Viên Thu --
Từ giả mộ Phòng thái úy
Rời quê trở lại chốn biên quân,
Xe ngựa dừng chân biệt mộ phần.
Ướt đất,lệ tuôn dòng lả chả
Thấp trời,mây lướt giải phân vân.
Khắp nơi mang kiếm tìm Từ hữu,
Bao độ hầu cờ tiếp Tạ quân.
Chỉ thấy hoa rừng rơi phất phới,
Nghe chim tiễn khách hót ân cần.
--Bản dịch của Phan Ngọc--
Đi hành dịch xa quê, tôi lại,
Dừng ngựa đây, xuống lạy mộ trơ.
Cúi đầu khóc nấm đất khô,
Ngửng lên mây bạc lững lờ ngừng bay.
Được hầu ngài bên cờ thủa nọ,
Kiếm giờ đây để đó tặng ai.
Rừng dày, hoa rụng tả tơi,
Oanh kêu tiễn khách bên tai gợi sầu.
--Bản dịch của Phạm Doanh--
Quê người, vẫn lết chân,
Mộ vắng, ngựa tời gần.
Trời quang, đám mây tàn.
Đánh cờ tiếp Tạ phó,
Treo kiếm gửi Từ quân.
Chỉ thấy hoa rừng rụng,
Tiễn khách oanh hót ran.
-- Bản dịch của Lâm trung Phú --
Xa quê thêm dịch chuyển
Dừng ngựa biệt cô phần !
Lệ đẫm , đất không ráo
Trời trong , mây cách phân .
Cuộc cờ hầu Tạ Truyện
Mang kiếm học Từ Quân !
Riêng thấy hoa rừng rụng
Nghe oanh hót tiễn chân !!!
-- English --
Five-character-regular-verse
Du Fu
ON LEAVING THE TOMB OF PREMIER FANG
Having to travel back now from this far place,
I dismount beside your lonely tomb.
The ground where I stand is wet with my tears;
The sky is dark with broken clouds....
I who played chess with the great Premier
Am bringing to my lord the dagger he desired.
But I find only petals falling down,
I hear only linnets answering.