• Kể từ khi các bạn đọc được Thông báo này. Tất cả Khách truy cập trên Văn Đàn chỉ có thể xem bài viết và không thể gửi được góp ý hay ý kiến cá nhân. Vui lòng bạn hãy Đăng Ký để trở thành một thành viên của Văn Đàn, các bạn mới có đầy đủ quyền truy cập trên Văn Đàn. Việc Đăng Ký hoàn toàn miễn phí và rất nhanh chóng.
    Thân!

Cổ Thi Trung Quốc Binh Xa Hành

Thiên Sầu
  • Lượt xem 1K
  • Trả lời: 0
Binh Xa Hành
Nguyên tác: Đỗ Phủ


binhxahanh.jpg



兵車行
車轔轔
馬蕭蕭
行人弓箭各在腰
耶孃妻子走相送
塵埃不見咸陽橋
牽衣頓足攔道哭
哭聲直上干雲霄
道旁過者問行人
行人但云點行頻
或從十五北防河
便至四十西營田
去時里正與裹頭
歸來頭白還戍邊
邊亭流血成海水
武皇開邊意未已
君不聞
漢家山東二百州
千村萬落生荊杞
縱有健婦把鋤犁
禾生隴畝無東西
況復秦兵耐苦戰
被驅不異犬與雞
長者雖有問
役夫敢申恨
且如今年冬
未休關西卒
縣官急索租
租稅從何出
信知生男惡
反是生女好
生女猶得嫁比鄰
生男埋沒隨百草
君不見
青海頭
古來白骨無人收
新鬼煩冤舊鬼哭
天陰雨濕聲啾啾
Binh xa hành
Xa lân lân,
Mã tiêu tiêu,
Hành nhân cung tiễn các tại yêu.
Gia nương thê tử tẩu tương tống,
Trần ai bất kiến Hàm Dương kiều.
Khiên y đốn túc lạn đạo khốc,
Khốc thanh trực thướng can vân tiêu.
Đạo bàng quá giả vấn hành nhân,
Hành nhân đãn vân : điểm hành tần.
Hoặc tòng thập ngũ bắc phòng Hà,
Tiện chí tứ thập tây doanh điền.
Khứ thời lý chánh dữ khỏa đầu,
Qui lai đầu bạch hoàn thú biên.
Biên đình lưu huyết thành hải thuỷ,
Vũ Hoàng khai biên ý vị dĩ.
Quân bất văn : Hán gia sơn đông nhị bách châu,
Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ ?
Túng hữu kiện phụ bả sừ lê,
Hoà sinh lũng mẫu vô đông tê.
Huống phục Tần binh nại khổ chiến,
Bị khu bất dị khuyển dữ kê !
Trưởng giả tuy hữu vấn,
Dịch phu cảm thân hận !
Thả như kim niên đông,
Vị hưu Quan Tây tốt.
Huyện quan cấp sách tô,
Tô thuế tòng hà xuất ?
Tín tri sinh nam ác,
Phản thị sinh nữ hảo.
Sinh nữ do đắc giá tị lân,
Sinh nam mai một tùy bách thảo.
Quân bất kiến Thanh Hải đầu,
Cổ lai bạch cốt vô nhân thu ?
Tân quỷ phiền oan, cựu quỷ khốc,
Thiên âm vũ thấp, thanh thu thu.
Bản dịch của Khương Hữu Dụng
BINH XA HÀNH
Xe rầm rầm,
Ngựa hí râng,
Người đi cung tên đeo bên lưng.
Cha mẹ, vợ con chạy theo tiễn,
Bụi mù chẳng thấy cầu Hàm Dương.
Níu áo giậm chân, chặn đường khóc,
Tiếng khóc xông lên thẳng chín tầng.
Khách qua đường thấy, hỏi người đi,
Người rằng :\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\"Bắt đi những mấy kỳ.
Lấy từ mười lăm giữ Hoàng Hà,
Cho đến bốn mươi ra khẩn điền.
Lúc đi ông lý quấn chỏm cho,
Trở về đầu bạc lại đi liền.
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ,
Mở cõi nhà vua ý chưa bỏ.
Há chẳng nghe nhà Hán, Sơn Đông hai trăm châu,
Ngàn thôn muôn xóm ùn gai cỏ.
Ví có đàn bà khoẻ cuốc cày,
Lúa mọc tràn lan khắp bốn bề.
Huống nữa quân Tần quen khổ chiến,
Khác chi gà chó bị lùa đi.
Thương tình, dù ông hỏi,
Nỗi hờn đâu dám nói,
Và mùa đông năm nay,
Lính Quan Tây chưa nghỉ.
Nhà vua bức đòi tô,
Chạy đâu ra tô thuế ?
Mới biết sinh con trai,
Chẳng bằng sinh con gái.
Sinh con gái còn được gả gần nhà,
Sinh con trai lấp vùi theo cỏ dại !
Há chẳng thấy miền Thanh Hải kia sao ?
Xưa nay xương trắng ai nhặt đâu !
Ma mới kêu oan, ma cũ khóc,
Trời âm mưa thấm, tiếng hu hu!\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\"
Bản dịch của Nhượng Tống
Ngựa hí vang! Xe sình sịch chạy!
Lưng đeo cung ai nấy như nhau
Vợ con cha mẹ chạy sau
Bụi tung nhìn chẳng thấy cầu Hàm Dương
Níu vạt áo đón đường lăn lóc
Vọng tận trời tiếng khóc thảm thê
Qua đường khách hỏi việc chi
Người đi rằng: Chúng tôi đi ... đi hoài
Mười lăm tuổi ra ngoài quan ải
Ngoài bốn mươi sang tới đồn điền
Bạc đầu về lại thú biên
Lúc đi ông lý đứng bên bịt đầu
Ngoài biên máu đỏ ngầu như bể
Nhà vua còn chưa nghỉ khai biên
Quan Ðông làng xóm muôn nghìn
Hai trăm châu lẻ mọc liền chông gai
Dù gái khỏe có tài cày cuốc
Ðầy đồng sao phá được cỏ đi
Quân Mường lại đánh rát ghê
Bị xua thôi có khác chi chó gà
Ông dẫu muốn hỏi ra manh mối
Tôi dám đâu cạn nỗi đắng cay
Tức như mùa rét năm nay
Quân còn kéo tới Quan Tây ùn ùn
Quan huyện lại gấp dồn sưu thuế
Sưu thuế nào biết chẻ đâu ra
Sinh trai khổ mẹ khổ cha
Thà sinh con gái thế mà lại hay
Sinh gái được gả ngay lân cận
Sinh trai đành vùi lẫn cỏ cây
Chẳng đi ông chẳng có hay
Bể xanh trên bãi xương bày trắng phau
Chồng chất mãi ai nào nhặt hộ
Ma mới phiền ma cũ kêu oan
Những khi trời tối mưa tàn
Tiếng ma ti tỉ khóc than canh dài
--Bản dịch của Hoa Sơn--
Đoàn xa mã hí vang rầm rộ
Quân sẵn sàng tên nỏ ngang lưng
Vợ con tiễn biệt ven đường
Cầu Hàm Dương khuất mờ trong bụi mù.
Tay níu kéo thân nhân bịn rịn
Tiếng khóc than bi tận mây xanh
Dọc đường người hỏi quẩn quanh
Lính rằng: biên ải quân hành đã đông.
Mười lăm tuổi ngự phòng sông Bắc
Còn bốn mươi sách cuốc khai hoang
Trẻ đi, Lý (1) khoác khăn choàng
Già về bạc tóc lại phòng biên cương.
Sa trường máu chảy thành biển rộng
Vũ Hoàng chưa thỏa mộng biên cương
Hãy nhìn triều Hán Sơn Đông!
Trăm châu, vạn xóm cỏ hoang mọc đầy.
Nếu như có nữ nhân cày cuốc
Ruộng đồng kia há được vuông tròn?
Sang Tần binh lại khổ thân
Tựa như kê khuyển từng đàn bị xua.
Dù ngài có hỏi han cho rõ
Nào dám đâu thổ lộ hận này
Lại như đông bắc năm nay
Quan-Tây lính vẫn bị đày viễn chinh.
Bọn quan huyện gấp đòi sưu thuế
Sưu thuế này há dể kiếm ra?
Sanh trai dở thiệt, đúng là!
Họa chăng sanh gái vậy mà lại hay!
Sanh con gái gả gần thêm phước
Sanh trai như cỏ mạt sa trường
Thấy chăng Thanh Hải biên cương!
Xưa nay mấy kẻ nhặt xương trắng tàn?
Kìa ma cũ mới khóc than
Mưa như tiếng nấc oan hồn tỉ tê.
Chú thích:
Lý (Lý chính): Lý trưởng cũng trưởng làng.
Vũ Hoàng: Vua Hán Vũ Đế (có ý ám chỉ Đường Huyền Tông)
Thanh Hải đầu: vùng biên giới Thanh Hải phía đông bắc tỉnh Thảnh Hải.
-- Bản dịch của NguyễnTâmHàn --
Ngựa hí lộng, xe sầm sập tiến
Kẻ ra đi cung kiếm đeo lưng
Người theo tiễn bước trập trùng
Cầu Hàm Dương giữa bụi tung mịt mờ
Tay níu kéo, miệng oà khóc thảm
Giọng bi ai thăm thẳm đỉnh trời
Khách ngang thăm hỏi đôi lời
Thưa rằng chinh chiến bắt người tòng quân
Trẻ mười lăm lãnh phần giữ nước
Tuổi bốn mươi lo việc khẩn điền
Khăn đầu cụ Lý quấn lên
Tóc phai về tới, lệnh liền lại đi
Máu biên ải thôi thì biển đỏ
Mở cõi bờ vua bỏ ý đâu
Thấy xưa, Hán cả trăm châu
Ngàn thôn xóm bỏ rặt mầu cỏ hoang
Dù nhi nữ kiếm đường cầy cuốc
Chắc gì đâu hưởng được hoa mầu
Vào Tần chinh chiến khổ đau
Bị xua nào có khác đâu chó gà
Khách quan hỏi cho ra lý lẽ
Tôi dám đâu cặn kẽ tỏ bầy
Nói chi, chỉ mới Đông này
Bắt quân đổ hướng Quan Tây từng đoàn
Lệnh sưu thuế đòi tràn bất kể
Lấy đâu ra của để nộp đây
Sinh trai thật lắm đắng cay
Có con là gái họa may đỡ phiền
Kiếm quanh quẩn xóm giềng gả bán
Còn hơn trai vùi mạng sa trường
Ngài hay, Thanh Hải biên cương
Cốt xương lính ngập sa trường khắp nơi
Oan hồn vất vưởng đầy trời
Tỉ tê tiếng khóc ….sập sùi mưa giăng
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Xe chạy ầm ầm ngựa hí vang
Người đi cung tiễn thắt lưng ngang.
Vợ con cha mẹ đưa từ biệt
Chẳng thấy Hàm Dương,bụi mịt mùng.
Khóc lóc đầy đường, níu áo, chân
Tầng mây vang vọng tiếng than van
Qua đường thăm hỏi người đi lính
Người đáp: Bắt đi những mấy lần.
Mười lăm tuổi giữ Hoàng hà bắc
Bốn chục, qua tây khẩn ruộng nâu
Đổi về lính thú khi đầu bạc
Lý trưởng lúc đi giúp bịt đầu.
Biên thùy máu chảy thành sông biển
Ý muốn lấn biên chẳng bỏ đâu.
Muôn xóm ngàn thôn gai góc mọc
Sơn Đông nhà Hán mấy trăm châu.
Túng bắt đàn bà vác cuốc bừa
Ruộng đồng lúa lại mọc lưa thưa
Bọn Tần đánh gấp quân ào ạt
Chẳng khác chi gà chó bị xua.
Ngài dù có hỏi đến đông này
Oán hận dịch phu chẳng tỏ bày
Lính ở Quan Tây chưa được nghỉ
Huyện quan hối thúc thuế thu ngay.
Thuế tô giờ lấy ở đâu ra?
Mới biết sinh trai xấu cả nhà!
Sinh gái gả gần là tốt số
Còn trai, thây vập chiến trường xa.
Ở miền Thanh Hải thấy gì sao?
Xương trắng xưa giờ có nhặt đâu
Ma mới oán than, ma cũ khóc
Mưa rơi, trời ám tiếng rầu rầu!
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Xe binh sĩ
Xe ầm ầm, ngựa hý vang,
Người đi, cung nỏ, đã mang lưng rồi.
Vợ con, cha mẹ, chẳng rời,
Cầu Hàm, chẳng thấy, bụi thôi mịt mùng.
Níu chân, kéo áo, chẳng ngừng,
Khóc than vang đến mấy từng mây cao.
Bên đường, khách hỏi xôn xao,
Người đi chỉ đáp vị nào kiểm tra.
Mười lăm, phòng bắc Hoàng-Hà,
Đến khi bốn chục, cất nhà khẩn hoang.
Lúc đi được cấp khăn quàng,
Khi về, đầu bạc, vội vàng ra biên.
Biên thuỳ, máu đổ triền miên,
Vũ-Hoàng mở mãi vùng biên không ngừng.
Anh nghe chăng:
Sơn-Đông, trăm huyện ước chừng,
Nghìn thôn, vạn ấp, mọc rừng cây gai.
Cầy bừa, phụ nữ thay trai,
Đông tây, lúa mọc chẳng ngay ngắn gì.
Quân Tần nhẫn nại đuổi đi,
Khiến cho bỏ chạy khác gì gà đâu.
Bậc trên nếu hỏi đuôi đầu,
Kẻ này dám nói một câu hận lòng.
Mùa đông vừa mới đây xong,
Quan-Tây, việc lính chưa mong trở về.
Thuế, quan hối thúc vợ quê,
Lấy đâu mà đóng thuế về cho quan.
Bởi xui, nên mới sinh nam,
Hên, sinh được nữ lo làm lo ăn.
Nữ, còn gả lối xóm gần,
Nam, trăm cây cỏ, vùi thân chốn nào!
Miền Thanh-Hải, chẳng thấy sao,
Xưa nay, xương trắng ai nào thâu đâu!
Cũ và quỷ mới khóc sầu,
Trời mưa mờ mịt, gió đâu ù ù...
--Bản dịch của Viên Thu--
Xe rộn ràng,
Ngựa hí vang.
Người đi lưng nặng mang cung kiếm,
Cha mẹ vợ con tiễn ngỡ ngàng.
Bụi phả cầu Hàm dương khuất bóng,
Ngăn chân níu áo, chặn bên đường.
Nghe vang tiếng khóc ngàn mây vọng,
Chạnh hỏi người đi, khách quá ngang.
Họ bảo: Sung quân dường bất tận,
Mười lăm, trẻ trấn bắc sông Hoàng.
Bốn mươi tuổi đến tây khai ruộng,
Ông Lý ngày đi tóc chít khăn.
Đầu bạc trở về quan ải trấn,
Biên cương máu tựa biển bao lần.
Mộng vua vẫn mở mang bờ cỏi,
Anh có nghe đời Hán, Sơn đông?
Ở đấy hai trăm châu hẳn vậy,
Ngàn thôn vạn xóm cỏ lau bồng.
Ví như phụ nữ cày bừa khỏe,
Lúa mọc bốn bề gặt có xong?
Chi kể quân Tần quen khổ trận,
Bị xua như chó má cùng không.
Nếu ngài đang muốn hỏi,
Nỗi hận dịch phu này.
Đông chí năm nay đó,
Quan tây lính trú đầy.
Huyện đường đòi thuế má,
Sưu nợ tính sao đây?
Sinh lắm con trai khổ,
Chi bằng gái hẳn hay.
Gái gần, dù xuất giá,
Trai chết, vùi cỏ cây.
Anh không thấy bãi đầu Thanh hải?
Xương trắng xưa nay chẳng kẻ hoài.
Ma mới sầu hoang, ma cũ hận,
Trời mưa dầm, tiếng khóc bi ai!
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Xe chở lương người đun rầm rập
Ngựa chở quan phóng gấp hí vang
Người đi cung tiễn trên lưng
Vợ con, cha mẹ bên đường tiễn đưa
Bụi mù cầu Hàm Dương không thấy
Họ níu chân giữ lại khóc than
Đầy đường vang tiếng than van
Âm thanh tới tận những làn mây cao
Người qua đường hỏi sao đi vậy
Đáp rằng sưu dịch lấy liên miên
Mười lăm tuồi, đắp đê liền
Bốn mươi khai phá ở miền tây hoang
Lúc trở về chuyển sang lính thú
Nơi biên thùy máu tụ thành sông
Vũ hoàng vẫn chửa hài lòng
Vẫn còn muồn mở mang vủng biên cương
Hai trăm châu Sơn Đông nhà Hán
Hàng ngàn làng vạn xóm gai đầy
Đàn bà dẫu có cầy hay
Lúa cằn thóc lép chẳng thay được chồng
Lại nữa lính đất Tần chịu khổ
Bị lùa đi như chó như gà
Quan trên có hỏi qua loa
Dich phu đâu dám kêu ca oán hờn
Như năm nay tiết hàn vừa đến
Lính Quan Tây chưa hạn được về
Huyện quan thúc thuế vợ quê
Lấy đâu mà đóng cho vừa lòng đây
Nay mới biết sinh trai là xấu
Sinh nữ nhi mới thật tốt hơn
Nữ nhi gả bán gần thôn
Trai theo chinh chiến xác chôn sa trường
Ông thấy ở tuyến đầu Thanh Hải
Xương trắng nơi quan ải dãi dầu
Oan hồn than khóc canh thâu
Tỉ tê thành tiếng âu sầu mưa đêm
-- English translated by tr. David Lunde --
Ballard of the Army Carts
Wagons rattling and banging,
horses neighing and snorting,
conscripts marching, each with bow and arrows at his hip,
fathers and mothers, wives and children, running to see them off--
so much dust kicked up you can\'t see Xian-yang Bridge!
And the families pulling at their clothes, stamping feet in anger,
blocking the way and weeping--
ah, the sound of their wailing rises straight up to assault heaven.
And a passerby asks, \"What\'s going on?\"
The soldier says simply, \"This happens all the time.
From age fifteen some are sent to guard the north,
and even at forty some work the army farms in the west.
When they leave home, the village headman has to wrap their turbans for them;
when they come back, white-haired, they\'re still guarding the frontier.
The frontier posts run with blood enough to fill an ocean,
and the war-loving Emperor\'s dreams of conquest have still not ended.
Hasn\'t he heard that in Han, east of the mountains,
there are two hundred prefectures, thousands and thousands of villages,
growing nothing but thorns?
And even where there is a sturdy wife to handle hoe and plough,
the poor crops grow raggedly in haphazard fields.
It\'s even worse for the men of Qin; they\'re such good fighters
they\'re driven from battle to battle like dogs or chickens.
Even though you were kind enough to ask, good sir,
perhaps I shouldn\'t express such resentment.
But take this winter, for instance,
they still haven\'t demobilized the troops of Guanxi,
and the tax collectors are pressing everyone for land-fees--
land-fees!--from where is that money supposed to come?
Truly, it is an evil thing to bear a son these days,
it is much better to have daughters;
at least you can marry a daughter to the neighbor,
but a son is born only to die, his body lost in the wild grass.
Has my lord seen the shores of the Kokonor?
The white bones lie there in drifts, uncollected.
New ghosts complain and old ghosts weep,
under the lowering sky their voices cry out in the rain\"
--Another English Version--
Folk-song-styled-verse
Du Fu
A SONG OF WAR-CHARIOTS
The war-chariots rattle,
The war-horses whinny.
Each man of you has a bow and a quiver at his belt.
Father, mother, son, wife, stare at you going,
Till dust shall have buried the bridge beyond Changan.
They run with you, crying, they tug at your sleeves,
And the sound of their sorrow goes up to the clouds;
And every time a bystander asks you a question,
You can only say to him that you have to go.
...We remember others at fifteen sent north to guard the river
And at forty sent west to cultivate the campfarms.
The mayor wound their turbans for them when they started out.
With their turbaned hair white now, they are still at the border,
At the border where the blood of men spills like the sea --
And still the heart of Emperor Wu is beating for war.
...Do you know that, east of China\'s mountains, in two hundred districts
And in thousands of villages, nothing grows but weeds,
And though strong women have bent to the ploughing,
East and west the furrows all are broken down?
...Men of China are able to face the stiffest battle,
But their officers drive them like chickens and dogs.
Whatever is asked of them,
Dare they complain?
For example, this winter
Held west of the gate,
Challenged for taxes,
How could they pay?
...We have learned that to have a son is bad luck-
It is very much better to have a daughter
Who can marry and live in the house of a neighbour,
While under the sod we bury our boys.
...Go to the Blue Sea, look along the shore
At all the old white bones forsaken --
New ghosts are wailing there now with the old,
Loudest in the dark sky of a stormy day.
 
Top Bottom