Chí Đức Nhị Tải, Phủ Tự Kinh Kim Quang Môn, Xuất
Nguyên tác: Đỗ Phủ
至德二載甫自京金
光門出間道歸鳳翔
乾元初從左拾遺移
華洲掾與親故別因
出此門有悲往事
杜甫
此道昔歸順
西郊胡正繁
至今殘破膽
應有未招魂
近侍歸京邑
移官起至尊
無才日衰老
駐馬望千門
Kim Quang Môn Xuất Gian Đạo Quy
Phụng Tường. Càn Nguyên sơ, Tòng Tả
Thập Di, Hoa Châu Duyện...
Dữ Thân Cố Biệt, Nhân Thử Môn,
Hữu Bi Vãng Sự
Thử đạo tích quy thuận
Tây giao Hồ chính phồn
Chí kim tàn phá đảm
Ưng hữu vị chiêu hồn
Cận thị quy kinh ấp
Di quan khởi chí tôn
Vô tài nhật suy lão
Trú mã vọng thiên môn.
Đỗ Phủ
--Dich nghĩa--
(Năm Chí Đức thứ 2 [756] Phủ ta từ kinh đô (bị giặc chiếm)
trốn khỏi cửa Kim Quang đến triều kiến vua mới
ở Phụng Tường. Năm đầu Càn Nguyên [758]
từ chức Tả Thập Di ta bị giáng xuống làm
quan nhỏ ở Hoa Châu, cùng người thân từ biệt,
nhân qua cửa này, chạnh lòng nhớ chuyện cũ)
(chỗ này [kinh đô] xưa hàng giặc)
(giặc Hồ đóng đông đảo ở phía tây)
(đến nay ta còn sợ vỡ mật)
(hồn vía như vẫn chưa hoàn)
(khi vua sủng ái, ta được về thăm nhà)
(nay vua đày ta làm quan nhỏ nơi xa)
(tài không có, sức mỗi ngày mỗi yếu)
(ta dừng ngựa nhìn nhà nhà [từ biệt]}
--Bản dịch của SongNguyễn HànTú--
Qua Cửa Kim Quang
Xưa kia cũng tại nơi đây
Giặc Hồ đóng ở phía tây ngập tràn
Nghĩ nay còn sợ bở gan
Hồn như vẫn chửa thập toàn an nhiên
Xưa vua thương được bình yên
Nay theo quân lệnh về miền xa xôi
Tài thô, bệnh tật rã rời
Kéo cương ghìm ngựa ngậm ngùi từ ly
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Chỗ nầy xưa hàng giặc
Quân Hồ đóng phía tây.
Đến nay sợ vỡ mật
Hồn vía vẫn còn bay.
Về nhà khi sủng ái
Nay biếm quan đi đày.
Tài sức đều suy bại
Dừng ngựa giã nhà đây.
--Bản dịch của Phan Ngọc--
Xưa ta theo cửa này lẩn trốn,
Phía Tây, Hồ gây loạn cuồng điên!
Bây giờ hốt hoảng vẫn nguyên,
Hình như hồn cũ biến luôn chẳng về?
Đất Hoa Châu gần kề cửa khuyết,
Việc dời quan vua biết làm sao?
Tài không, ngày một già mau,
Ngựa dừng, ngoái ngắm muôn lầu ngẩn ngơ.
--Bản dịch của Phạm Doanh--
Đường này trước theo cổng,
Miền tây, loạn giặc Hồ.
Tới nay còn vỡ mật,
Hồn vẫn thấy bơ phờ.
Gần được về kinh ấp,
Quan xa lệnh vua cho.
Không tài, ngày già yếu,
Dừng ngựa, ngắm kinh đô.
--Bản dịch của Viên Thu--
Hàng giặc lúc xưa chính lối này,
Hồ binh đóng khắp nẻo đàng tây.
Dường toan vỡ mật vào khi ấy,
Cũng chửa lại hồn cho đến nay.
Gần gũi ân vua về quận náu,
Xa xôi biếm chức lệnh quan đày.
Sức tài mỗi lúc thêm còm cõi,
Dừng ngựa, ngóng nhà cửa dứt day.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Đường này xưa quy hàng
Giặc Hồ đóng ngập tràn
Tới nay sợ vỡ mật
Hồn vía còn chưa hoàn
Vua thương về thăm ấp
Giáng chức cũng vua ban
Vô tài lại già yếu
Dừng ngựa biệt người thân
-- Bản dịch của Lâm trung Phú --
Đường ấy xưa quy thuận
Giặc Hồ ngập phía tây !
Nay còn mật muốn vỡ
Có lẽ hồn chưa khuây !
Ưu ái được thăm ấp
Lệnh vua quan bị đày .
Không tài ,ngày lại yếu
Dừng ngựa nhìn chia tay !!!
Nguyên tác: Đỗ Phủ
至德二載甫自京金
光門出間道歸鳳翔
乾元初從左拾遺移
華洲掾與親故別因
出此門有悲往事
杜甫
此道昔歸順
西郊胡正繁
至今殘破膽
應有未招魂
近侍歸京邑
移官起至尊
無才日衰老
駐馬望千門
Kim Quang Môn Xuất Gian Đạo Quy
Phụng Tường. Càn Nguyên sơ, Tòng Tả
Thập Di, Hoa Châu Duyện...
Dữ Thân Cố Biệt, Nhân Thử Môn,
Hữu Bi Vãng Sự
Thử đạo tích quy thuận
Tây giao Hồ chính phồn
Chí kim tàn phá đảm
Ưng hữu vị chiêu hồn
Cận thị quy kinh ấp
Di quan khởi chí tôn
Vô tài nhật suy lão
Trú mã vọng thiên môn.
Đỗ Phủ
--Dich nghĩa--
(Năm Chí Đức thứ 2 [756] Phủ ta từ kinh đô (bị giặc chiếm)
trốn khỏi cửa Kim Quang đến triều kiến vua mới
ở Phụng Tường. Năm đầu Càn Nguyên [758]
từ chức Tả Thập Di ta bị giáng xuống làm
quan nhỏ ở Hoa Châu, cùng người thân từ biệt,
nhân qua cửa này, chạnh lòng nhớ chuyện cũ)
(chỗ này [kinh đô] xưa hàng giặc)
(giặc Hồ đóng đông đảo ở phía tây)
(đến nay ta còn sợ vỡ mật)
(hồn vía như vẫn chưa hoàn)
(khi vua sủng ái, ta được về thăm nhà)
(nay vua đày ta làm quan nhỏ nơi xa)
(tài không có, sức mỗi ngày mỗi yếu)
(ta dừng ngựa nhìn nhà nhà [từ biệt]}
--Bản dịch của SongNguyễn HànTú--
Qua Cửa Kim Quang
Xưa kia cũng tại nơi đây
Giặc Hồ đóng ở phía tây ngập tràn
Nghĩ nay còn sợ bở gan
Hồn như vẫn chửa thập toàn an nhiên
Xưa vua thương được bình yên
Nay theo quân lệnh về miền xa xôi
Tài thô, bệnh tật rã rời
Kéo cương ghìm ngựa ngậm ngùi từ ly
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Chỗ nầy xưa hàng giặc
Quân Hồ đóng phía tây.
Đến nay sợ vỡ mật
Hồn vía vẫn còn bay.
Về nhà khi sủng ái
Nay biếm quan đi đày.
Tài sức đều suy bại
Dừng ngựa giã nhà đây.
--Bản dịch của Phan Ngọc--
Xưa ta theo cửa này lẩn trốn,
Phía Tây, Hồ gây loạn cuồng điên!
Bây giờ hốt hoảng vẫn nguyên,
Hình như hồn cũ biến luôn chẳng về?
Đất Hoa Châu gần kề cửa khuyết,
Việc dời quan vua biết làm sao?
Tài không, ngày một già mau,
Ngựa dừng, ngoái ngắm muôn lầu ngẩn ngơ.
--Bản dịch của Phạm Doanh--
Đường này trước theo cổng,
Miền tây, loạn giặc Hồ.
Tới nay còn vỡ mật,
Hồn vẫn thấy bơ phờ.
Gần được về kinh ấp,
Quan xa lệnh vua cho.
Không tài, ngày già yếu,
Dừng ngựa, ngắm kinh đô.
--Bản dịch của Viên Thu--
Hàng giặc lúc xưa chính lối này,
Hồ binh đóng khắp nẻo đàng tây.
Dường toan vỡ mật vào khi ấy,
Cũng chửa lại hồn cho đến nay.
Gần gũi ân vua về quận náu,
Xa xôi biếm chức lệnh quan đày.
Sức tài mỗi lúc thêm còm cõi,
Dừng ngựa, ngóng nhà cửa dứt day.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Đường này xưa quy hàng
Giặc Hồ đóng ngập tràn
Tới nay sợ vỡ mật
Hồn vía còn chưa hoàn
Vua thương về thăm ấp
Giáng chức cũng vua ban
Vô tài lại già yếu
Dừng ngựa biệt người thân
-- Bản dịch của Lâm trung Phú --
Đường ấy xưa quy thuận
Giặc Hồ ngập phía tây !
Nay còn mật muốn vỡ
Có lẽ hồn chưa khuây !
Ưu ái được thăm ấp
Lệnh vua quan bị đày .
Không tài ,ngày lại yếu
Dừng ngựa nhìn chia tay !!!