Chinh phụ ngâm khúc
Nguyên tác: Đặng Trần Côn
征婦吟曲
鄧陳琨 著
一。亂時
1. Loạn Thời
天 地 風 塵
紅 顏 多 屯
悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因
鼓 鼙 聲 動 長 城 月
5
烽 火 影 照 甘 泉 雲
九 重 按 劍 起 當 席
半 夜 飛 檄 傳 將 軍
清 平 三 百 年 天 下
從 此 戎 衣 屬 武 臣
10
使 星 天 門 催 曉 發
行 人 重 法 輕 離 別
弓 箭 兮 在 腰
妻 孥 兮 別 袂
獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁
15
喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨
有 怨 兮 分 攜
有 愁 兮 契 闊
良 人 二 十 吳 門 豪
投 筆 硯 兮 事 弓 刀
20
直 把 連 城 獻 明 聖
願 將 尺 劍 斬 天 驕
丈 夫 千 里 志 馬 革
泰 山 一 擲 輕 鴻 毛
便 辭 閨
閫
從 征 戰
25
西 風 鳴 鞭 出 渭 橋
Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân
Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
Thanh bình tam bách niên thiên hạ
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
Cung tiễn hề tại yêu
Thê noa hề biệt khuyết
Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu
Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán
Hữu oán hề phân huề
Hữu sầu hề khế khoát
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
Đầu bút nghiên hề sự cung đao
Trực bả liên thành hiến minh thánh
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu
Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến
Tây phong minh tiên xuất Vỵ kiều
二。出征
2. Xuất Chinh
渭 橋 頭 清 水 溝
清 水 邊 青 草 途
送 君 處 兮 心 悠 悠
君 登 途 兮 妾 恨 不 如 駒
30
君 臨 流 兮 妾 恨 不 如 舟
清 清 有 流 水
不 洗 妾 心 愁
青 青 有 芳 草
不 忘 妾 心 憂
35
語 復 語 兮 執 君 手
步 一 步 兮 牽 君
襦
妾 心 隨 君 似 明 月
君 心 萬 里 千 山 箭
擲 離 杯 兮 舞 龍 泉
40
橫 征 槊 兮 指 虎 穴
云 隨 介 子 獵 樓 蘭
笑 向 蠻 溪 談 馬 援
君 穿 壯 服 紅 如 霞
君 騎 驍 馬 白 如 雪
45
驍 馬 兮 鸞 鈴
征 鼓 兮 人 行
須 臾 中 兮 對 面
頃 刻 裡 兮 分 程
分 程 兮 河 梁
50
徘 徊 兮 路 旁
路 旁 一 望 兮 旆 央 央
前 車 兮 北 細 柳
後 騎 兮 西 長 楊
騎 車 相 擁 君 臨 塞
55
楊 柳 那 知 妾 斷 腸
去 去 落 梅 聲 漸 遠
行 行 征 旆 色 何 忙
望 雲 去 兮 郎 別 妾
望 山 歸 兮 妾 思 郎
Vỵ kiều đầu thanh thuỷ câu
Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ
Tống quân xứ hề tâm du du
Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu
Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu
Thanh thanh hữu lưu thuỷ
Bất tẩy thiếp tâm sầu
Thanh thanh hữu phương thảo
bất vong thiếp tâm ưu
Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ
Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu
Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt
Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện
Quân xuyên trang phục hồng như hà
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết
Kiêu mã hề loan linh
Chinh cổ hề nhân hành
Tu du trung hề đối diện
Khoảnh khắc lý hề phân trình
Phân trình hề hà lương
Bồi hồi hề lộ bàng
Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương
Tiền xa hề Bắc Tế Liễu,
Hậu kỵ hề Tây Trường Dương
Kỵ xa tương ủng quân lâm tái
Dương liễu na tri thiếp đoạn trường
Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn
Hành hành chinh bái sắc hà mang
Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp
Vọng sơn quy hề thiếp tư lang
60
郎 去 程 兮 濛 雨 外
妾 歸 處 兮 昨 夜 房
歸 去 兩 回 顧
雲 青 兮 山 蒼
郎 顧 妾 兮 咸 陽
65
妾 顧 郎 兮 瀟 湘
瀟 湘 煙 阻 咸 陽 樹
咸 陽 樹 隔 瀟 湘 江
相 顧 不 相 見
青 青 陌 上 桑
70
陌 上 桑 陌 上 桑
妾 意 君 心 誰 短 長
Lang khứ trình hề mông vũ ngoại
Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng
Quy khứ lưỡng hồi cố
Vân thanh hề sơn thương
Lang cố thiếp hề Hàm Dương
Thiếp cố lang hề Tiêu Tương
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang
Tương cố bất tương kiến
Thanh thanh mạch thượng tang
Mạch thượng tang mạch thượng tang
Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường
三。 悲懼
3. Bi Cụ
自 從 別 後 風 沙 隴
明 月 知 君 何 處 宿
古 來 征 戰 場
75
萬 里 無 人 屋
風 熬 熬 兮 打 得 人 顏 憔
水 深 深 兮 怯 得 馬 蹄 縮
戍 夫 枕 鼓 臥 龍 沙
戰 士 抱 鞍 眠 虎 陸
80
今 朝 漢 下 白 登 城
明 日 胡 窺 青 海 曲
青 海 曲 青 山 高 復 低
青 山 前 青 溪 斷 復 續
青 山 上 雪 蒙 頭
85
青 溪 下 水 沒 腹
可 憐 多 少 鐵 衣 人
思 歸 當 此 愁 顏 蹙
錦 帳 君 王 知 也 無
艱 難 誰 為 畫 征 夫
90
料 想 良 人 經 歷 處
蕭 關 角 瀚 海 隅
霜 村 雨 店
Tự tùng biệt hậu phong sa lũng
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
Cổ lai chinh chiến trường
Vạn lý vô nhân ốc
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc
Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa
Chiến sĩ bão yên miên hổ lục
Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
Thanh khê hạ thuỷ một phúc
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
Cẩm trướng quân vương tri dã vô
Gian nan thuỳ vị họa chinh phu
Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
Tiêu Quan giác hãn hải ngung.
Sương thôn vũ điếm
虎 落 蛇 區
風 餐 露 宿
95
雪
脛
冰 鬚
登 高 望 雲 色
安 復 不 生 愁
自 從 別 後 東 南 徼
東 南 知 君 戰 何 道
100
古 來 征 戰 人
性 命 輕 如 草
鋒 刃 下 溫 溫 挾 纊 主 恩 深
時 刻 中 歷 歷 橫 戈 壯 士 夭
祈 山 舊 塚 月 茫 茫
105
淝
水 新 墳 風 裊 裊
風 裊 裊 空 吹 死 士 魂
月 茫 茫 曾 照 征 夫 貌
征 夫 貌 兮 誰 丹 青
死 士 魂 兮 誰 哀 弔
110
可 憐 爭 鬪 舊 江 山
行 人 過 此 情 多 少
古 來 征 戰 幾 人 還
班 超 歸 時 鬢 已 斑
料 想 良 人 馳 騁 外
115
三 尺 劍 一 戎 鞍
秋 風 沙 草
明 月 關 山
馬 頭 鳴 鏑
城 上 緣 竿
120
功 名 百 忙 裏
勞 苦 未 應 閒
Hổ lạc xà khu
Phong xan lộ túc
Tuyết hĩnh băng tu
Đăng cao vọng vân sắc
An phục bất sinh sầu
Tự tùng biệt hậu Ðông Nam kiếu
Đông Nam tri quân chiến hà đạo
Cổ lai chinh chiến nhân
Tính mệnh khinh như thảo
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
Khả liên tranh đấu cựu giang sơn
Hành nhân quá thử tình đa thiểu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại
Tam xích kiếm nhất nhung yên
Thu phong sa thảo
Minh nguyệt quan sơn
Mã đầu minh đích
Thành thượng duyên can
Công danh bách mang lý
Lao khổ vị ưng nhàn
四。懷想
4. Hoài Tưởng
勞 與 閒 誰 與 言
君 在 天 涯 妾 倚 門
倚 門 固 妾 今 生 分
125
天 涯 豈 君 平 生 魂
自 信 相 隨 魚 水 伴
那 堪 相 隔 水 雲 村
妾 身 不 想 為 征 婦
君 身 豈 學 為 王 孫
130
何 事 江 南 與 江 北
令 人 愁 曉 更 愁 昏
一 個 是 風 流 少 年 客
一 個 是 深 閨 少 年 婚
可 堪 兩 年 少
135
千 里 各 寒 暄
憶 昔 與 君 相 別 時
柳 條 猶 未 囀 黃 鸝
問 君 何 日 歸
君 約 杜 鵑 啼
140
杜 鵑 已 逐 黃 鸝 老
青 柳 樓 前 語 鷾 鴯
憶 昔 與 君 相 別 中
雪 梅 猶 未 識 東 風
問 君 何 日 歸
145
君 指 桃 花 紅
桃 花 已 伴 東 風 去
老 梅 江 上 又 芙 蓉
與 我 約 何 所
乃 約 隴 西 岑
150
日 中 兮 不 來
墜 葉 兜 我 簪
竚 立 空 涕 泣
荒 邨 喧 午 禽
與 我 約 何 所
Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn
Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn
Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận
Thiên nhai khởi quân bình sinh hồn
Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn
Na kham tương cách thuỷ vân thôn
Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ
Quân thân khởi học vi vương tôn
Hà sự giang Nam dữ giang Bắc
Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn
Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách
Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn
Khả kham lưỡng niên thiếu
Thiên lý các hàn huyên
Ức tích dữ quân tương biệt thời
Liễu điều do vị chuyển hoàng ly
Vấn quân hà nhật quy
Quân ước đỗ quyên đề
Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão
Thanh Liễu lâu tiền ngữ ý nhi
Ức tích dữ quân tương biệt trung
Tuyết mai do vị thức Ðông phong,
Vấn quân hà nhật quy
Quân chỉ đào hoa hồng
Đào hoa dĩ bạn Ðông phong khứ
Lão mai giang thượng hựu phù dung
Dữ ngã ước hà sở
Nãi ước Lũng Tây sầm
Nhật trung hề bất lai
Trụy diệp đâu ngã trâm
Trữ lập không thế khấp
Hoang thôn huyên ngọ cầm
Dữ ngã ước hà sở
155
乃 約 漢 陽 橋
日 晚 兮 不 來
谷 風 吹 我 袍
竚 立 空 涕 泣
寒 江 起 暮 潮
160
昔 年 寄 信 勸 君 回
今 年 寄 信 勸 君 來
信 來 人 未 來
楊 花 零 落 委 蒼 苔
蒼 苔 蒼 苔 又 蒼 苔
165
一 步 閒 庭 百 感 催
昔 年 回 書 訂 妾 期
今 年 回 書 訂 妾 歸
書 歸 人 未 歸
紗 窗 寂 寞 轉 斜 暉
170
斜 暉 斜 暉 又 斜 暉
十 約 佳 期 九 度 違
Nãi ước Hán Dương kiều
Nhật vãn hề bất lai
Cốc phong xuy ngã bào
Trữ lập không thế khấp
Hàn giang khởi mộ trào
Tích niên ký tín khuyến quân hồi
Kim niên ký tín khuyến quân lai
Tín lai nhân vị lai
Dương hoa linh lạc uỷ thương đài
Thương đài thương đài hựu thương đài
Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi
Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ
Kim niên hồi thư đính thiếp quy
Thư quy nhân vị quy
Sa song tịch mịch chuyển tà huy
Tà huy tà huy hựu tà huy
Thập ước giai kỳ cửu độ vi
五。孤另
5. Cô Lánh
試 將 去 日 從 頭 數
不 覺 荷 錢 已 三 鑄
最 苦 是 連 年 紫 塞 人
175
最 苦 是 千 里 黃 花 戍
黃 花 戍 誰 無 堂 上 親
紫 塞 人 誰 無 閨 中 婦
有 親 安 可 暫 相 離
有 婦 安 能 久 相 負
180
君 有 老 親 鬢 如 霜
君 有 兒 郎 年 且 孺
老 親 兮 倚 門
兒 郎 兮 待 哺
供 親 餐 兮 妾 為 男
185
課 子 書 兮 妾 為 父
供 親 課 子 此 一 身
傷 妾 思 君 今 幾 度
思 君 昨 日 兮 已 過
Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ
Bất giác hà tiền dĩ tam chú
Tối khổ thị liên niên tử tái nhân
Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú
Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân
Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ
Hữu thân an khả tạm tương ly
Hữu phụ an năng cửu tương phụ
Quân hữu lão thân mấn như sương
Quân hữu nhi lang niên thả nhụ
Lão thân hề ỷ môn
Nhi lang hề đãi bộ
Cung thân xan hề thiếp vi nam
Khóa tử thư hề thiếp vi phụ
Cung thân khóa tử thử nhất thân
Thương thiếp tư quân kim kỷ độ
Tư quân tạc nhật hề dĩ quá
思 君 今 年 兮 又 暮
190
君 淹 留 二 年 三 年 更 四 年
妾 情 懷 百 縷 千 縷 還 萬 縷
安 得 在 君 邊
訴 妾 衷 腸 苦
妾 有 漢 宮 釵
195
曾 是 嫁 時 將 送 來
憑 誰 寄 君 子
表 妾 相 思 懷
妾 有 秦 樓 鏡
曾 與 郎 初 相 對 影
200
憑 誰 寄 君 子
照 妾 今 孤 另
妾 有 鉤 指 銀
手 中 時 相 親
憑 誰 寄 君 子
205
微 物 寓 慇 懃
妾 有 搔 頭 玉
嬰 兒 年 所 弄
憑 誰 寄 君 子
他 鄉 幸 珍 重
Tư quân kim niên hề hựu mộ
Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên
Thiếp tình hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ
An đắc tại quân biên
Tố thiếp trung trường khổ
Thiếp hữu Hán cung thoa
Tằng thị giá thời tương tống lai
Bằng thuỳ ký quân tử
Biểu thiếp tương tư hoài
Thiếp hữu Tần lâu kính
Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh
Bằng thùy ký quân tử
Chiếu thiếp kim cô lánh
Thiếp hữu câu chỉ ngân
Thủ trung thời tương thân
Bằng thuỳ ký quân tử
Vi vật ngụ ân cần
Thiếp hữu tao đầu ngọc
Anh nhi niên sở lộng
Bằng thuỳ ký quân tử
Tha hương hạnh trân trọng
六。望想
6. Vọng Tưởng
210
昔 年 音 信 有 來 時
今 年 音 稀 信 亦 稀
見 雁 枉 然 思 塞 帛
聞 霜 漫 自 製 綿 衣
西 風 欲 寄 無 鴻 便
215
天 外 憐 伊 雪 雨 垂
雪 寒 伊 兮 虎 帳
雨 冷 伊 兮 狼 幃
寒 冷 般 般 苦
天 外 可 憐 伊
220
錦 字 題 詩 封 更 展
金 錢 問 卜 信 還 疑
Tích niên âm tín hữu lai thời
Kim niên âm hy tín diệc hy
Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch
Văn sương mạn tự chế miên y
Tây phong dục ký vô hồng tiện
Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ
Tuyết hàn y hề hổ trướng
Vũ lãnh y hề lang vi
Hàn lãnh ban ban khổ
Thiên ngoại khả liên y
Cẩm tự đề thi phong cánh triển
Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi
幾 度 黃 昏 時 重 軒 人 獨 立
幾 回 明 月 夜 單 枕 鬢 斜 攲
不 關 酖 與 酣 惛 惛 人 似 醉
225
不 關 愚 與 惰 懵 懵 意 如 癡
簪 斜 委 鬌 髼 無 奈
裙 褪 柔 腰 瘦 不 支
晝 沈 沈 午 院 行 如 墜
夕 悄 悄 湘 簾 捲 又 垂
230
簾 外 窺 日 出 枝 頭 無 鵲 報
簾 中 坐 夜 來 心 事 只 燈 知
燈 知 若 無 知
妾 悲 只 自 悲
Kỷ độ hoàng hôn thời trùng hiên nhân độc lập
Kỷ hồi minh nguyệt dạ đơn chẩm mấn tà khi
Bất quan trầm dữ hàm hôn hôn nhân tự tuý
Bất quan ngu dữ nọa mộng mộng ý như si
Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại
Quần thối nhu yêu sấu bất chi
Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ
Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ
Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo
Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri
Đăng tri nhược vô tri
Thiếp bi chỉ tự bi
七。愁悶
7. Sầu Muộn
悲 又 悲 兮 更 無 言
235
燈 花 人 影 總 堪 憐
咿 喔 雞 聲 通 五 夜
披 拂 槐 陰 度 八 磚
愁 似 海
刻 如 年
240
強 燃 香 花 魂 消 檀 炷 下
強 臨 鏡 玉 筋 墜 菱 花 前
強 援 琴 指 下 驚 停 鸞 鳳 柱
強 調 瑟 曲 中 悲 遏 鴛 鴦 絃
此 意 春 風 若 肯 傳
245
千 金 借 力 寄 燕 然
燕 然 未 能 傳
憶 君 迢 迢 兮 路 如 天
天 遠 未 易 通
憶 君 悠 悠 兮 思 何 窮
250
懷 人 處 傷 心 胸
樹 葉 青 霜 裡
蛩 聲 細 雨 中
霜 斧 殘 兮 楊 柳
雨 鋸 損 兮 梧 桐
Bi hựu bi hề cánh vô ngôn
Đăng hoa nhân ảnh tổng kham liên
Y ốc kê thanh thông ngũ dạ
Phi phất hòe âm độ bát chuyên
Sầu tự hải
Khắc như niên
Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ
Cưỡng lâm kính ngọc cân trụy lăng hoa tiền
Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ
Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền
Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền
Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên
Yên Nhiên vị năng truyền
Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên
Thiên viễn vị dị thông
Ức quân du du hề tứ hà cùng
Hoài nhân xứ thương tâm hung
Thụ diệp thanh sương lý
Cùng thanh tế vũ trung
Sương phủ tàn hề dương liễu
Vũ cứ tổn hề ngô đồng
255
鳥 返 高 舂
露 下 低 叢
寒 垣 候 虫
遠 寺 曉 鐘
蟋 蟀 數 聲 雨
260
芭 蕉 一 院 風
風 裂 紙 窗 穿 帳 隙
月 移 花 影 上 簾
櫳
花 前 月 照 月 自 白
月 下 花 開 花 自 紅
265
月 花 花 月 兮 影 重 重
花 前 月 下 兮 心 忡 忡
Điểu phản cao thung
Lộ há đê tùng
Hàn viên hậu trùng
Viễn tự hiểu chung
Tất suất sổ thanh vũ
Ba tiêu nhất viện phong
Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích
Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung
Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch
Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng
Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng
Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung
八。失望
8.Thất Vọng
千 般 懶 萬 事 慵
慵 女 工 錦 軸 恥 拋 鴛 對 偶
慵 婦 巧 金 針 羞 刺 蝶 雌 雄
270
慵 粧 對 曉 空 施 粉
慵 語 終 朝 悶 倚 窗
倚 窗 倚 窗 復 倚 窗
郎 君 去 兮 誰 為 容
誰 為 容 兮 空 盤 桓
275
郎 君 去 兮 隔 重 關
何 啻 天 帝 孫 冷 落 泣 銀 渚
何 啻 姮 娥 婦 凄 凉 坐 廣 寒
藉 愁 兮 為 枕
煮 悶 兮 為 餐
280
欲 將 酒 制 愁 愁 重 酒 無 力
欲 將 花 解 悶 悶 壓 花 無 顏
愁 悶 總 為 愁 悶 誤
悶 愁 化 作 九 泉 灘
試 瓊 笙 兮 不 成 響
285
抱 銀 箏 兮 不 忍 彈
思 遠 塞 兮 行 路 難
念 征 夫 兮 囊 索 單
Thiên ban lãn vạn sự dung
Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu
Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng
Dung trang đối hiểu không thi phấn
Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song
Ỷ song ỷ song phục ỷ song
Lang quân khứ hề thuỳ vi dung
Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn
Lang quân khứ hề cách trùng quan
Hà thí Thiên đế tôn lãnh lạc khấp Ngân Chử
Hà thí Hằng Nga phụ thê lương tọa Quảng Hàn
Tạ sầu hề vi chẩm
Chử muộn hề vi xan
Dục tương tửu chế sầu sầu trọng tửu vô lực
Dục tương hoa giải muộn muộn áp hoa vô nhan
Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ
Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than
Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng
Bão ngân tranh hề bất nhẫn đàn
Tư viễn tái hề hành lộ nan
Niệm chinh phu hề nang tác đơn
鵑 聲 啼 落 關 情 淚
樵 鼓 敲 殘 帶 憊 肝
290
不 勝 憔 悴 形 骸 軟
始 覺 睽 離 滋 味 酸
Quyên thanh đề lạc quan tình lệ
Tiều cổ xao tàn đái bại can
Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn
Thủy giác khuê ly tư vị toan
九。望尋
9. Vọng Tầm
滋 味 酸 兮 酸 更 辛
酸 辛 端 的 為 良 人
為 良 人 兮 雙 妾 淚
295
為 良 人 兮 隻 妾 身
妾 身 不 到 君 征 帳
妾 淚 不 到 君 征 巾
惟 有 夢 魂 無 不 到
尋 君 夜 夜 到 江 津
300
尋 君 兮 陽 台 路
會 君 兮 湘 水 濱
記 得 幾 番 歡 會 處
無 非 一 枕 夢 中 春
此 身 反 恨 不 如 夢
305
隴 水 函 關 與 子 親
夢 去 每 憎 驚 更 斷
夢 回 又 慮 幻 非 真
惟 有 寸 心 真 不 斷
未 嘗 頃 刻 少 離 君
310
心 不 離 君 未 見 君
凭 高 幾 度 望 征 輪
望 君 何 所 見
江 洲 滿 白 蘋
燕 草 披 青
縷
315
秦 桑 染 綠 雲
南 來 井 邑 半 兵 塵
落 日 平 沙 鷺 一 群
望 君 何 所 見
官 路 短 長 亭
320
雲 間 吳 樹 暗
Tư vị toan hề toan cánh tân
Toan tân đoan đích vị lương nhân
Vị lương nhân hề song thiếp lệ
Vị lương nhân hề chích thiếp thân
Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng
Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân
Duy hữu mộng hồn vô bất đáo
Tầm quân dạ dạ đáo giang tân
Tầm quân hề Dương Đài lộ
Hội quân hề Tương thuỷ tân
Ký đắc kỷ phiên hoan hội xứ
Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân.
Thử thân phản hận bất như mộng
Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân
Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn
Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân
Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn
Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân
Tâm bất ly quân vị kiến quân,
Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân
Vọng quân hà sở kiến
Giang châu mãn bạch tần
Yên thảo phi thanh lũ
Tần tang nhiễm lục vân
Nam lai tỉnh ấp bán binh trần
Lạc nhật bình sa lộ nhất quần
Vọng quân hà sở kiến
Quan lộ đoản trường đình
Vân gian Ngô thọ ám
天 際 蜀 山 青
北 來 禾 黍 半 荒 城
微 雨 江 樓 笛 一 聲
望 君 何 所 見
325
崆 山 葉 做 堆
自 飛 青 野 雉
自 舞 隔 江 梅
東 去 煙 嵐 慘 不 開
西 風 飄 薄 鳥 聲 哀
330
望 君 何 所 見
河 水 曲 如 鉤
長 空 數 點 雁
遠 浦 一 歸 舟
西 去 松 楸 接 斷 蕪
335
行 人 微 沒 隔 蒼 洲
望 盡 天 頭 又 地 頭
幾 日 登 樓 更 下 樓
凍 雲 阻 盡 相 思 眼
何 處 玉 關 征 戰 陬
Thiên tế Thục sơn thanh
Bắc lai hoà thử bán hoang thành
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh
Vọng quân hà sở kiến
Không sơn diệp tố đôi
Tự phi thanh dã trĩ
Tự vũ cách giang mai
Đông khứ yên lam thảm bất khai
Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai
Vọng quân hà sở kiến
Hà thủy khúc như câu
Trường không sổ điểm nhạn,
Viễn phố nhất quy châu
Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu
Hành nhân vi một cách thương châu
Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu
Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu
Đống vân trở tận tương tư nhãn
Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu
十。懷疑
10. Hoài Nghi
340
恨 無 長 房 縮 地 術
恨 無 仙 子 擲 巾 符
有 心 誠 化 石
無 淚 可 登 樓
回 首 長 堤 楊 柳 色
345
悔 教 夫 婿 覓 封 侯
不 識 離 家 千 里 外
君 心 有 似 妾 心 不
君 心 倘 與 妾 心 似
妾 亦 於 君 何 怨 尤
350
妾 心 如 花 常 向 陽
只 怕 君 心 如 流 光
流 光 一 去 不 復 照
花 為 流 光 黃 又 黃
Hận vô trường phòng súc địa thuật
Hận vô tiên tử trịch cân phù
Hữu tâm thành hóa thạch
Vô lệ khả đăng lâu
Hồi thủ trường đề dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Bất thức ly gia thiên lý ngoại
Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu
Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự
Thiếp diệc ư quân hà oán vưu
Thiếp tâm như hoa thường hướng dương
Chỉ phạ quân tâm như lưu quang
Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu
Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng
花 黃 更 向 誰 邊 笑
355
流 光 不 肯 一 迴 照
黃 花 卻 為 流 光 老
黃 花 老 兮 落 滿 墻
Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu
Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu
Hoàng hoa khước vi lưu quang lão
Hoàng hoa lão hề lạc mãn tường
十一。憂老
11. Ưu Lão
花 落 如 今 經 幾 霜
庭 蘭 兮 已 摘
360
江 藻 兮 又 芳
攝 衣 步 前 堂
仰 目 觀 天 章
纖 雲 時 彷 彿
北 斗 忽 低 昂
365
河 水 翻 明 滅
參 躔 乍 現 藏
月 照 兮 我 床
風 吹 兮 我 牆
玉 顏 隨 年 削
370
丈 夫 猶 他 方
昔 為 形 與 影
今 為 參 與 商
君 邊 雲 擁 青 絲 騎
妾 處 苔 生 嚮
屧
廊
375
廊 內 春 風 日 將 歇
可 憐 誤 盡 良 時 節
良 時 節 姚 黃 魏 紫 嫁 東 風
良 時 節 織 女 牛 郎 會 明 月
昨 日 未 笄 西 家 娘
380
今 年 已 歸 東 鄰 倩
可 怜 兔 守 一 空 房
年 年 誤 盡 良 時 節
良 時 節 兮 忽 如 梭
人 世 青 春 容 易 過
385
況 復 是 春 悶 未 消 秋 恨 續
況 復 是 合 歡 更 少 別 愁 多
Hoa lạc như kim kinh kỷ sương
Đình lan hề dĩ trích
Giang tảo hề hựu phương
Nhiếp y bộ tiền đường
Ngưỡng mục quan thiên chương
Tiêm vân thời phảng phất
Bắc đẩu hốt đê ngang
Hà thuỷ phiên minh diệt
Sâm triền sạ hiện tàng
Nguyệt chiếu hề ngã sàng
Phong xuy hề ngã tường
Ngọc nhan tuỳ niên tước
Trượng phu do tha phương
Tích vi hình dữ ảnh
Kim vi Sâm dữ Thương
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang
Lang nội xuân phong nhật tương yết
Khả liên ngộ tận lương thời tiết
Lương thời tiết Diêu hoàng Nguỵ tử giá Ðông phong
Lương thời tiết Chức nữ Ngưu lang hội minh nguyệt
Tạc nhật vị kê Tây gia nương
Kim niên dĩ quy Ðông lân thiến
Khả linh thố thủ nhất không phòng
Niên niên ngộ tận lương thời tiết
Lương thời tiết hề hốt như thoa
Nhân thế thanh xuân dung dị qua
Huống phục thị xuân muộn vị tiêu thu hận tục
Huống phục thị hợp hoan cánh thiểu biệt sầu đa
別 愁 秋 恨 兩 相 磨
蒲 柳 青 青 能 幾 何
空 漢 惜 淚 咨 嗟
390
只 怕 白 到 文君 頭 空 嘆 惜
只 恐 花 到 潘 郎 鬢 浪咨 嗟
嘆 惜 何 以 為
顏 色 猶 紅 如 嫩 花
咨 嗟 何 以 為
395
光 陰 一 擲 無 回 戈
咨 命 薄 惜 年 花
紛 紛 少 婦 幾 成
皤
香 閣 重 懷 陪 笑 臉
花 樓 尚 記 解 香 羅
400
恨 天 不 與 人 方 便
底 事 到 今 成 坎 坷
坎 坷 坎 坷 知 奈 何
為 妾 嗟 兮 為 君 嗟
Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma
Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà
Không thán tích lệ tư ta
Chỉ phạ bạch đáo Văn Quân đầu không thán tích
Chỉ khủng hoa đáo Phan lang mấn lãng tư ta
Thán tích hà dĩ vi
Nhan sắc do hồng như nộn hoa
Tư ta hà dĩ vi
Quang âm nhất trịch vô hồi qua
Tư mệnh bạc tích niên hoa
Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà
Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm
Hoa lâu thượng ký giải hương la
Hận thiên bất dữ nhân phương tiện
Để sự đáo kim thành khảm kha
Khảm kha khảm kha tri nại hà
Vị thiếp ta hề vị quân ta
十二。願約
12. Nguyện Ước
君 不 見 野 外 雙 鴛 鴦
405
甘 心 不 忍 兩 分 張
又 不 見 樑 間 雙 燕 燕
白 首 何 曾 忘 眷 戀
鶼 鶼 也 無 情
比 翼 相 隨 過 一 生
410
蛩 蛩 也 無 知
並 驅 到 老 不 相 違
路 柳 曾 傳 連 理 處
池 蓮 亦 有 並 頭 時
負 蟨 兮 駏 驉
415
抱 蘿 兮 菟 絲
何 人 生 之 相 違
嗟 物 類 之 如 斯
安 得 在 天 為 比 翼 鳥
Quân bất kiến dã ngoại song uyên ương
Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương
Hựu bất kiến lương giang song yến yến
Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến
Kiêm kiêm dã vô tình
Tỷ dực tương tuỳ quá nhất sinh
Cùng cùng dã vô tri
Tịnh khu đáo lão bất tương vi
Lộ liễu tằng truyền liên lý xứ
Trì liên diệc hữu tịnh đầu thời
Phụ quyết hề cự hư
Bão la hề thố ty
Hà nhân sinh chi tương vi
Ta vật loại chi như tư
An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu
在 地 為 連 理 枝
420
寧 甘 死 相 見
不 忍 生 相 離
雖 然 死 相 見
曷 若 生 相 隨
安 得 君 無 老 日
425
妾 常 少 年
願 為 影 兮 隨 君 邊
君 有 行 兮 影 不 遠
君 依 光 兮 妾 如 願
願 君 許 國 心 如 丹
430
願 君 庇 民 身 如 鐵
饑 來 吞 下 月 氏 頭
渴 來 飲 下 單 于 血
Tại địa vi liên lý chi
Ninh cam tử tương kiến
Bất nhẫn sinh tương ly
Tuy nhiên tử tương kiến
Hạt nhược sinh tương tuỳ
An đắc quân vô đáo lão nhật
Thiếp thường thiếu niên
Nguyện vi ảnh hề tuỳ quân biên
Quân hữu hành hề ảnh bất viễn
Quân y quang hề thiếp như nguyện
Nguyện quân hứa quốc tâm như đan
Nguyện quân tỳ dân thân như thiết
Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu
Khát lai ẫm hạ Thiền Vu huyết
十三。懇求
13. Khẩn Cầu
何 幸 期 門 鋒 刃 中
老 天 著 意 護 英 雄
435
護 英 雄 百 戰 功
長 驅 駟 馬 靜 關 東
關 東 關 北 休 傳 箭
山 尾 山 頭 早 掛 弓
捷 色 旌 旗 辭 塞 月
440
凱 歌 將 士 背 邊 風
勒 詩 兮 燕 然 石
獻
馘
兮 未 央 宮
未 央 宮 兮 向 天 朝
挽 銀 河 兮 洗 刀 弓
445
詞 人 刪 下 平 淮 頌
樂 府 歌 傳 入 漢 謠
凌 煙 閣 兮 秦 叔 寶
麒 麟 台 兮 霍 嫖 姚
天 長 地 久 茅 苴 券
450
子 蔭 妻 封 爵 祿 標
Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung
Lão thiên trước ý hộ anh hùng
Hộ anh hùng bách chiến công
Trường khu tứ mã tịnh quan Ðông
Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn,
Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung
Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt
Khải ca tướng sĩ bối biên phong
Lặc thi hề Yên Nhiên thạch
Hiến quắc hề Vị Ương cung
Vị Ương cung hề hướng thiên triều
Vãn Ngân hà hề tẩy đao cung
Từ nhân san hạ Bình Hoài Tụng
Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao
Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu
Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu
Thiên trường địa cửu mao thư khoán
Tử ấm thê phong tước lộc tiêu
有 愁 兮 此 日
得 意 兮 來 時
妾 非 蘇 家 癡 心 婦
君 亦 洛 陽 好 男 兒
455
歸 來 倘 佩 黃 金 印
肯 學 當 年 不 下 機
願 為 君 兮 解 征 衣
願 為 君 兮 捧 霞
巵
為 君 梳 櫛 雲
鬟
髻
460
為 君 粧 點 玉
臙
脂
取 君 看 兮 舊 淚 帕
訴 君 聽 兮 舊 情 詞
舊 情 詞 兮 換 新 聯
語 新 話 舊 兮 酒 杯 前
465
淺 斟 兮 慢 慢
底 唱 兮 連 連
斟 不 斟 兮 蒲 城 釀
唱 不 唱 兮 紫
騮
篇
願 斟 九 醞 兮 唱 雙 聯
470
與 君 整 頓 兮 舊 姻 緣
交 頸 成 雙 到 老 天
償 了 功 名 離 別 債
相 憐 相 守 太 平 年
太 平 年 願 君 止 戈 置
475
若 然 此 別 妾 何 淚
將 會 之 期 將 寄 言
嗟 乎 丈 夫 當 如 是
Hữu sầu hề thử nhật
Đắc ý hề lai thời
Thiếp phi Tô gia si tâm phụ
Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi
Quy lai thảng bội hoàng kim ấn
Khẳng học đương niên bất há ky
Nguyện vi quân hề giải chinh y
Nguyện vi quân hề bổng hà chi
Vi quân sơ trất vân hoàn kế
Vi quân trang điểm ngọc yên chi
Thủ quân khan hề cựu lệ phạ
Tố quân thính hề cựu tình từ
Cựu tình từ hề hoán tân liên
Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền
Thiển châm hề mạn mạn
Đê xướng hề liên liên
Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng
Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên
Giao kỉnh thành song đáo lão thiên
Thường liễu công danh ly biệt trái
Tương liên tương thủ thái bình niên
Thái bình niên nguyện quân chỉ qua trí
Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ
Tương hội chi kỳ tương ký ngôn
Ta hồ trượng phu đương như thị
Chú Thích
1. Các tiểu đề 1-13 và ngắt dòng theo Hoàng Xuân Hãn, Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo.
2. Chữ Việt được đánh dấu trên nguyên âm thay vì trên bán âm theo Nguyễn Ðình
Hoà và Phạm Văn Hải.
Thí dụ 1: Trong chữ “hoà”, o là bán âm, a là nguyên âm, nếu đánh dấu trên
mẫu tự o theo lối xưa: “hò-a” không phát đúng âm của chữ.
--Bản dịch của Đoàn Thị Điểm--
Chinh Phụ Ngâm
Nguyên tác chữ Hán của tiên sinh Đặng Trần Côn,
được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm
Tiểu sử Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm:
Bà Đoàn Thị Điểm nguyên họ Đoàn, lấy chồng họ Nguyễn, lại theo họ chồng thường gọi là Nguyễn Thị Điểm, người làng Hiếu Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Bà là em gái ông Giám Sinh (tiến sĩ) Đoàn Luân, biệt hiệu là Hồng Hà Nữ Sĩ, sinh đầu thế kỷ XVIII đời Lê. Tư chất bà rất thông minh, từ năm lên sáu tuổi đă học đến Sử Kư.
Một hôm, ông Luân lấy chữ Sử Kư Hán Cao Tổ ra cho bà một câu nguyên văn:
"Bạch xà đương đạo, Quí bạt kiếm nhi trảm chi"
(Con rắn trắng đón đường, ông Quí rút gươm mà chém đấy).
Bà liền lấy một câu nguyên văn ở Sử Kư, điển ông Vũ đời Thuấn mà đối rằng:
"Hoàng Long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết"
(Con rồng vàng đội chiếc thuyền, ông Vũ trông trời mà than rằng).
Đối như vậy mỗi chữ xứng nhau, lại dùng cả chữ ở nguyên văn Sử Kư.
Lại một hôm, bà soi gương, ông Luân ra câu đối rằng:
"Đối kỉnh họa my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm"
(Soi gương vẽ mày, một chấm hóa ra hai chấm).
Câu này có chữ Điểm nghĩa là chấm, lại là tên của bà.
Bà đối ngay lại rằng:
"Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân"
(Đến ao xem trăng, một vành hiện ra hai vành).
Chữ Luân là vành lại là tên ông Luân. Đối có tài và lanh, thật đáng gọi là Tiên Phận Thiên Tài khá cao vậy.
Khi có sứ Tàu sang, bà giả làm người bán quán rượu. Sứ Tàu vào uống rượu thấy bà đang biên sổ, lại thấy ở cột quán rượu có lắm câu đối hay, và bên ghế bà ngồi có nhiều sách vở, mới ra cho bà một câu đối rằng:
"An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh"
(An Nam một tấc đất, chẳng biết mấy người cày) - có ư xấc ngạo và ghẹo chọc.
Bà đối ngay rằng:
"Bắc quốc chư đại phu, giai nho thử đồ xuất"
(Nước Bắc (Tàu) các vị đại phu thảy do đường ấy mà ra cả).
Bà cũng đáp lời phúng thích lại chẳng chịu kém ư lời ra đối. Các sứ giả chịu tài và cũng lấy làm thẹn.
Bà có tài học cao siêu nên phải ở nơi địa vị kén chồng, muốn kén cả người có đủ tài ba và môn hộ tương đương, nên đă lâu không có người vừa ư. Sau bà đă ba mươi tuổi, mới kết duyên làm thứ nhất ông Nguyễn Kiều, làm quan Thượng Thư, hiệu là Hạo Hiên, cùng nhau ở chốn khuê pḥng yêu kính đáng gọi là "Tương Kính Như Tân".
Khi ông mất, học trọ̀ ông theo học với bà. Bà mở trường dạy học, măi đến bảy mươi tuổi mới từ trần.
Bà có soạn tập "Tục Truyền Kỳ" và diễn Nôm bài "Chinh Phụ Ngâm" này.
Chinh Phụ Ngâm gồm 12 hồi sau:
1- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
2- Xếp bút nghiên theo việc đao cung
3- Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai
4- Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
5- Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
6- Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
7- Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ?
8- Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
9- Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
10- Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
11- Tiếng khải ca trở lại thần kinh
12- Giữ gìn nhau vui thuở thái bình
=========================================
1- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
1. Thủa trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?
2- Xếp bút nghiên theo việc đao cung
5. Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ.
10. Aáo nhung trao quan vũ từ đây.
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
15. Bóng cờ tiếng trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
20. Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.
3- Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai
25. Ngòi đầu cầu, nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa,
30. Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San.
35. Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo,
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử,
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba,
Aáo chàng đỏ tựa ráng pha,
40. Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia taỵ
Hà Lương chia rẽ đường này,
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
45. Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương,
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương, biết thiếp đoạn trường này chăng ?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
50. Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.
55. Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh,
Chốn Hàm Dương, chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương, thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
60. Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?
4- Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
65. Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mát phương nao ?
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu.
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
70. Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.
?m yên gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
75. Hình khe, thế núi gần xa,
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như giội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu.
Thương người áo giáp bấy lâu,
80. Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ?
Tưởng chàng giong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan.
85. Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương !
5- Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo,
90. Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ?
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước,
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu ?
95. Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
100. Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.
105. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành.
Aáng công danh trăm đường rộn rã,
110. Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
6- Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Trong cửa này đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay ?
115. Những mong cá nước sum vầy,
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn.
Cớ sao cách trở nước non,
120. Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu.
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành.
125. Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục, oanh già,
Yý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió,
130. Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông.
Nay đào đã quyến gió Đông,
Phù dung lại đã bên sông bơ sờ.
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm ?
135. Ngập ngừng, lá rụng cành trâm,
Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao ?
Ngập ngừng gió thổi chéo bào,
140. Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại, người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ.
145. Thư thường tới, người không thấy tới,
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai.
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
150. Tiền sen này đã nẩy à ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương.
155. Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
160. Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mể biết bao !
Nhớ chàng trải mấy sương sao ,
Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư.
165. Kể năm đã ba tư cách diễn,
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang.
?ớc gì gần gũi tấc gang,
Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,
170. Gương lầu Tần dấu đã soi chung.
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.
175. Cậy ai mà gửi tới nơi,
Để chàng trân trọng dấu người tương thân.
7- Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Trải mấy xuân, tin đi tin lại,
Tới xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhàn , luống tưởng thư phong,
180. Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.
Gió tây nổi không đường hồng tiện ,
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
185. Đề chữ gấm , phong thôi lại mở,
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai, hồn say bóng lẫn,
190. Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng,
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
195. Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
200. Hoa đèn kia với bóng người khá thương !
Gà eo óc gáy sương năm trống ,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên .
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
205. Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan .
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Lòng này gửi gió đông có tiện,
210. Nghìn vàng xin gửi đến non Yên .
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
215. Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu,
Mưa dường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù ,
220. Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc ,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
225. Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau.
Đâu xiết kể, muôn sầu nghìn não,
230. Từ nữ công , phụ xảo đều nguôi.
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song.
235. Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ?
Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng, ngoài cõi Giang Lăng
Khác gì ả Chức, chị Hằng,
240. Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng.
8- Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối,
Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.
245. Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng,
?m đàn tranh mấy phím rời tay.
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt,
250. Trống tiều khua, như rứt buồng gan.
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường này.
Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ,
Chua cay này, há có vì ai ?
255. Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn.
Duy còn hồn mộng được gần,
260. Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.
Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân.
265. Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.
Khi mơ những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không !
Duy có một tấm lòng chẳng dứt,
270. Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi.
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến Nam, bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh.
275. Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách,
Mây rà cây xanh ngất núi non.
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
280. Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
Non Đông thấy lá hầu chất đống,
Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai.
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
285. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu.
Ngàn thông chen chúc chòm lau,
Cách duềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bề chân trời mặt đất,
290. Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen.
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan?
9- Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên.
295. Lòng này hóa đá cũng nên,
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,
300. Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng ?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa.
Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
305. Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương.
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần.
Chồi lan nọ trước sân đã hái,
310. Ngọn tần kia bên bãi đưa hương.
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẩn thờ.
Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ,
Độ Khuê Triền buổi có buổi không.
315. Thức mây đòi lúc nhạt nồng,
Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô.
Lạnh lùng thay bấy chiều thu,
320. Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi.
Một năm một nhạt mùi son phấn,
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương.
325. Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in.
Gió Xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy,
330. Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.
Nọ thì ả Chức chàng Ngâu,
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thương một kẻ phòng không luống giữ,
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau.
335. Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh.
10- Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Xuân thu để giận quanh ở dạ,
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,
340. Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gã Phan Lang,
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng.
345. Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở,
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ dòng.
Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt,
350. Lầu hoa kia phảng phất hơi hương.
Trách trời sao để lỡ làng,
Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội,
Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương.
355. Chẳng xem chim yến trên rường,
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen là thức cỏ cây,
360. Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền.
?ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy đây ?
Thiếp xin muôn kiếp sau này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
365. Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,
370. Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên.
Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền,
Mọi bề trung hiều thiếp xin vẹn tròn.
11- Tiếng khải ca trở lại thần kinh
Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,
Sức tỳ dân dường sắt tri tri.
375. Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi,
?ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn.
Mũi đòng vác đòi lần hăm hở,
Đã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
380. Buông tên ải Bắc, treo cung non Đoài.
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh.
Đỉnh non khắc đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đình dâng công.
385. Nước duềnh Hán việc đòng rửa sạch,
Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân.
Nền huân tướng đai cân rạng vẻ,
390. Chữ đồng hưu bia để nghìn đông.
?n trên tử ấm thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
12- Giữ gìn nhau vui thuở thái bình
Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ,
Chàng hẳn không kém lũ Lạc Dương.
395. Khi về chẳng quả ấn vàng,
Trên khung cửi dám dẫy duồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng giũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
400. Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu,
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
405. Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca dần ren rén đòi liên.
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ,
410. Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.
Ngâm nga mong gửi chữ tình,
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu !
Nguyên tác: Đặng Trần Côn
征婦吟曲
鄧陳琨 著
一。亂時
1. Loạn Thời
天 地 風 塵
紅 顏 多 屯
悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因
鼓 鼙 聲 動 長 城 月
5
烽 火 影 照 甘 泉 雲
九 重 按 劍 起 當 席
半 夜 飛 檄 傳 將 軍
清 平 三 百 年 天 下
從 此 戎 衣 屬 武 臣
10
使 星 天 門 催 曉 發
行 人 重 法 輕 離 別
弓 箭 兮 在 腰
妻 孥 兮 別 袂
獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁
15
喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨
有 怨 兮 分 攜
有 愁 兮 契 闊
良 人 二 十 吳 門 豪
投 筆 硯 兮 事 弓 刀
20
直 把 連 城 獻 明 聖
願 將 尺 劍 斬 天 驕
丈 夫 千 里 志 馬 革
泰 山 一 擲 輕 鴻 毛
便 辭 閨
閫
從 征 戰
25
西 風 鳴 鞭 出 渭 橋
Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân
Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
Thanh bình tam bách niên thiên hạ
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
Cung tiễn hề tại yêu
Thê noa hề biệt khuyết
Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu
Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán
Hữu oán hề phân huề
Hữu sầu hề khế khoát
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
Đầu bút nghiên hề sự cung đao
Trực bả liên thành hiến minh thánh
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu
Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến
Tây phong minh tiên xuất Vỵ kiều
二。出征
2. Xuất Chinh
渭 橋 頭 清 水 溝
清 水 邊 青 草 途
送 君 處 兮 心 悠 悠
君 登 途 兮 妾 恨 不 如 駒
30
君 臨 流 兮 妾 恨 不 如 舟
清 清 有 流 水
不 洗 妾 心 愁
青 青 有 芳 草
不 忘 妾 心 憂
35
語 復 語 兮 執 君 手
步 一 步 兮 牽 君
襦
妾 心 隨 君 似 明 月
君 心 萬 里 千 山 箭
擲 離 杯 兮 舞 龍 泉
40
橫 征 槊 兮 指 虎 穴
云 隨 介 子 獵 樓 蘭
笑 向 蠻 溪 談 馬 援
君 穿 壯 服 紅 如 霞
君 騎 驍 馬 白 如 雪
45
驍 馬 兮 鸞 鈴
征 鼓 兮 人 行
須 臾 中 兮 對 面
頃 刻 裡 兮 分 程
分 程 兮 河 梁
50
徘 徊 兮 路 旁
路 旁 一 望 兮 旆 央 央
前 車 兮 北 細 柳
後 騎 兮 西 長 楊
騎 車 相 擁 君 臨 塞
55
楊 柳 那 知 妾 斷 腸
去 去 落 梅 聲 漸 遠
行 行 征 旆 色 何 忙
望 雲 去 兮 郎 別 妾
望 山 歸 兮 妾 思 郎
Vỵ kiều đầu thanh thuỷ câu
Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ
Tống quân xứ hề tâm du du
Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu
Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu
Thanh thanh hữu lưu thuỷ
Bất tẩy thiếp tâm sầu
Thanh thanh hữu phương thảo
bất vong thiếp tâm ưu
Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ
Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu
Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt
Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện
Quân xuyên trang phục hồng như hà
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết
Kiêu mã hề loan linh
Chinh cổ hề nhân hành
Tu du trung hề đối diện
Khoảnh khắc lý hề phân trình
Phân trình hề hà lương
Bồi hồi hề lộ bàng
Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương
Tiền xa hề Bắc Tế Liễu,
Hậu kỵ hề Tây Trường Dương
Kỵ xa tương ủng quân lâm tái
Dương liễu na tri thiếp đoạn trường
Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn
Hành hành chinh bái sắc hà mang
Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp
Vọng sơn quy hề thiếp tư lang
60
郎 去 程 兮 濛 雨 外
妾 歸 處 兮 昨 夜 房
歸 去 兩 回 顧
雲 青 兮 山 蒼
郎 顧 妾 兮 咸 陽
65
妾 顧 郎 兮 瀟 湘
瀟 湘 煙 阻 咸 陽 樹
咸 陽 樹 隔 瀟 湘 江
相 顧 不 相 見
青 青 陌 上 桑
70
陌 上 桑 陌 上 桑
妾 意 君 心 誰 短 長
Lang khứ trình hề mông vũ ngoại
Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng
Quy khứ lưỡng hồi cố
Vân thanh hề sơn thương
Lang cố thiếp hề Hàm Dương
Thiếp cố lang hề Tiêu Tương
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang
Tương cố bất tương kiến
Thanh thanh mạch thượng tang
Mạch thượng tang mạch thượng tang
Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường
三。 悲懼
3. Bi Cụ
自 從 別 後 風 沙 隴
明 月 知 君 何 處 宿
古 來 征 戰 場
75
萬 里 無 人 屋
風 熬 熬 兮 打 得 人 顏 憔
水 深 深 兮 怯 得 馬 蹄 縮
戍 夫 枕 鼓 臥 龍 沙
戰 士 抱 鞍 眠 虎 陸
80
今 朝 漢 下 白 登 城
明 日 胡 窺 青 海 曲
青 海 曲 青 山 高 復 低
青 山 前 青 溪 斷 復 續
青 山 上 雪 蒙 頭
85
青 溪 下 水 沒 腹
可 憐 多 少 鐵 衣 人
思 歸 當 此 愁 顏 蹙
錦 帳 君 王 知 也 無
艱 難 誰 為 畫 征 夫
90
料 想 良 人 經 歷 處
蕭 關 角 瀚 海 隅
霜 村 雨 店
Tự tùng biệt hậu phong sa lũng
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
Cổ lai chinh chiến trường
Vạn lý vô nhân ốc
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc
Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa
Chiến sĩ bão yên miên hổ lục
Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
Thanh khê hạ thuỷ một phúc
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
Cẩm trướng quân vương tri dã vô
Gian nan thuỳ vị họa chinh phu
Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
Tiêu Quan giác hãn hải ngung.
Sương thôn vũ điếm
虎 落 蛇 區
風 餐 露 宿
95
雪
脛
冰 鬚
登 高 望 雲 色
安 復 不 生 愁
自 從 別 後 東 南 徼
東 南 知 君 戰 何 道
100
古 來 征 戰 人
性 命 輕 如 草
鋒 刃 下 溫 溫 挾 纊 主 恩 深
時 刻 中 歷 歷 橫 戈 壯 士 夭
祈 山 舊 塚 月 茫 茫
105
淝
水 新 墳 風 裊 裊
風 裊 裊 空 吹 死 士 魂
月 茫 茫 曾 照 征 夫 貌
征 夫 貌 兮 誰 丹 青
死 士 魂 兮 誰 哀 弔
110
可 憐 爭 鬪 舊 江 山
行 人 過 此 情 多 少
古 來 征 戰 幾 人 還
班 超 歸 時 鬢 已 斑
料 想 良 人 馳 騁 外
115
三 尺 劍 一 戎 鞍
秋 風 沙 草
明 月 關 山
馬 頭 鳴 鏑
城 上 緣 竿
120
功 名 百 忙 裏
勞 苦 未 應 閒
Hổ lạc xà khu
Phong xan lộ túc
Tuyết hĩnh băng tu
Đăng cao vọng vân sắc
An phục bất sinh sầu
Tự tùng biệt hậu Ðông Nam kiếu
Đông Nam tri quân chiến hà đạo
Cổ lai chinh chiến nhân
Tính mệnh khinh như thảo
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
Khả liên tranh đấu cựu giang sơn
Hành nhân quá thử tình đa thiểu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại
Tam xích kiếm nhất nhung yên
Thu phong sa thảo
Minh nguyệt quan sơn
Mã đầu minh đích
Thành thượng duyên can
Công danh bách mang lý
Lao khổ vị ưng nhàn
四。懷想
4. Hoài Tưởng
勞 與 閒 誰 與 言
君 在 天 涯 妾 倚 門
倚 門 固 妾 今 生 分
125
天 涯 豈 君 平 生 魂
自 信 相 隨 魚 水 伴
那 堪 相 隔 水 雲 村
妾 身 不 想 為 征 婦
君 身 豈 學 為 王 孫
130
何 事 江 南 與 江 北
令 人 愁 曉 更 愁 昏
一 個 是 風 流 少 年 客
一 個 是 深 閨 少 年 婚
可 堪 兩 年 少
135
千 里 各 寒 暄
憶 昔 與 君 相 別 時
柳 條 猶 未 囀 黃 鸝
問 君 何 日 歸
君 約 杜 鵑 啼
140
杜 鵑 已 逐 黃 鸝 老
青 柳 樓 前 語 鷾 鴯
憶 昔 與 君 相 別 中
雪 梅 猶 未 識 東 風
問 君 何 日 歸
145
君 指 桃 花 紅
桃 花 已 伴 東 風 去
老 梅 江 上 又 芙 蓉
與 我 約 何 所
乃 約 隴 西 岑
150
日 中 兮 不 來
墜 葉 兜 我 簪
竚 立 空 涕 泣
荒 邨 喧 午 禽
與 我 約 何 所
Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn
Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn
Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận
Thiên nhai khởi quân bình sinh hồn
Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn
Na kham tương cách thuỷ vân thôn
Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ
Quân thân khởi học vi vương tôn
Hà sự giang Nam dữ giang Bắc
Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn
Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách
Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn
Khả kham lưỡng niên thiếu
Thiên lý các hàn huyên
Ức tích dữ quân tương biệt thời
Liễu điều do vị chuyển hoàng ly
Vấn quân hà nhật quy
Quân ước đỗ quyên đề
Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão
Thanh Liễu lâu tiền ngữ ý nhi
Ức tích dữ quân tương biệt trung
Tuyết mai do vị thức Ðông phong,
Vấn quân hà nhật quy
Quân chỉ đào hoa hồng
Đào hoa dĩ bạn Ðông phong khứ
Lão mai giang thượng hựu phù dung
Dữ ngã ước hà sở
Nãi ước Lũng Tây sầm
Nhật trung hề bất lai
Trụy diệp đâu ngã trâm
Trữ lập không thế khấp
Hoang thôn huyên ngọ cầm
Dữ ngã ước hà sở
155
乃 約 漢 陽 橋
日 晚 兮 不 來
谷 風 吹 我 袍
竚 立 空 涕 泣
寒 江 起 暮 潮
160
昔 年 寄 信 勸 君 回
今 年 寄 信 勸 君 來
信 來 人 未 來
楊 花 零 落 委 蒼 苔
蒼 苔 蒼 苔 又 蒼 苔
165
一 步 閒 庭 百 感 催
昔 年 回 書 訂 妾 期
今 年 回 書 訂 妾 歸
書 歸 人 未 歸
紗 窗 寂 寞 轉 斜 暉
170
斜 暉 斜 暉 又 斜 暉
十 約 佳 期 九 度 違
Nãi ước Hán Dương kiều
Nhật vãn hề bất lai
Cốc phong xuy ngã bào
Trữ lập không thế khấp
Hàn giang khởi mộ trào
Tích niên ký tín khuyến quân hồi
Kim niên ký tín khuyến quân lai
Tín lai nhân vị lai
Dương hoa linh lạc uỷ thương đài
Thương đài thương đài hựu thương đài
Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi
Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ
Kim niên hồi thư đính thiếp quy
Thư quy nhân vị quy
Sa song tịch mịch chuyển tà huy
Tà huy tà huy hựu tà huy
Thập ước giai kỳ cửu độ vi
五。孤另
5. Cô Lánh
試 將 去 日 從 頭 數
不 覺 荷 錢 已 三 鑄
最 苦 是 連 年 紫 塞 人
175
最 苦 是 千 里 黃 花 戍
黃 花 戍 誰 無 堂 上 親
紫 塞 人 誰 無 閨 中 婦
有 親 安 可 暫 相 離
有 婦 安 能 久 相 負
180
君 有 老 親 鬢 如 霜
君 有 兒 郎 年 且 孺
老 親 兮 倚 門
兒 郎 兮 待 哺
供 親 餐 兮 妾 為 男
185
課 子 書 兮 妾 為 父
供 親 課 子 此 一 身
傷 妾 思 君 今 幾 度
思 君 昨 日 兮 已 過
Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ
Bất giác hà tiền dĩ tam chú
Tối khổ thị liên niên tử tái nhân
Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú
Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân
Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ
Hữu thân an khả tạm tương ly
Hữu phụ an năng cửu tương phụ
Quân hữu lão thân mấn như sương
Quân hữu nhi lang niên thả nhụ
Lão thân hề ỷ môn
Nhi lang hề đãi bộ
Cung thân xan hề thiếp vi nam
Khóa tử thư hề thiếp vi phụ
Cung thân khóa tử thử nhất thân
Thương thiếp tư quân kim kỷ độ
Tư quân tạc nhật hề dĩ quá
思 君 今 年 兮 又 暮
190
君 淹 留 二 年 三 年 更 四 年
妾 情 懷 百 縷 千 縷 還 萬 縷
安 得 在 君 邊
訴 妾 衷 腸 苦
妾 有 漢 宮 釵
195
曾 是 嫁 時 將 送 來
憑 誰 寄 君 子
表 妾 相 思 懷
妾 有 秦 樓 鏡
曾 與 郎 初 相 對 影
200
憑 誰 寄 君 子
照 妾 今 孤 另
妾 有 鉤 指 銀
手 中 時 相 親
憑 誰 寄 君 子
205
微 物 寓 慇 懃
妾 有 搔 頭 玉
嬰 兒 年 所 弄
憑 誰 寄 君 子
他 鄉 幸 珍 重
Tư quân kim niên hề hựu mộ
Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên
Thiếp tình hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ
An đắc tại quân biên
Tố thiếp trung trường khổ
Thiếp hữu Hán cung thoa
Tằng thị giá thời tương tống lai
Bằng thuỳ ký quân tử
Biểu thiếp tương tư hoài
Thiếp hữu Tần lâu kính
Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh
Bằng thùy ký quân tử
Chiếu thiếp kim cô lánh
Thiếp hữu câu chỉ ngân
Thủ trung thời tương thân
Bằng thuỳ ký quân tử
Vi vật ngụ ân cần
Thiếp hữu tao đầu ngọc
Anh nhi niên sở lộng
Bằng thuỳ ký quân tử
Tha hương hạnh trân trọng
六。望想
6. Vọng Tưởng
210
昔 年 音 信 有 來 時
今 年 音 稀 信 亦 稀
見 雁 枉 然 思 塞 帛
聞 霜 漫 自 製 綿 衣
西 風 欲 寄 無 鴻 便
215
天 外 憐 伊 雪 雨 垂
雪 寒 伊 兮 虎 帳
雨 冷 伊 兮 狼 幃
寒 冷 般 般 苦
天 外 可 憐 伊
220
錦 字 題 詩 封 更 展
金 錢 問 卜 信 還 疑
Tích niên âm tín hữu lai thời
Kim niên âm hy tín diệc hy
Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch
Văn sương mạn tự chế miên y
Tây phong dục ký vô hồng tiện
Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ
Tuyết hàn y hề hổ trướng
Vũ lãnh y hề lang vi
Hàn lãnh ban ban khổ
Thiên ngoại khả liên y
Cẩm tự đề thi phong cánh triển
Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi
幾 度 黃 昏 時 重 軒 人 獨 立
幾 回 明 月 夜 單 枕 鬢 斜 攲
不 關 酖 與 酣 惛 惛 人 似 醉
225
不 關 愚 與 惰 懵 懵 意 如 癡
簪 斜 委 鬌 髼 無 奈
裙 褪 柔 腰 瘦 不 支
晝 沈 沈 午 院 行 如 墜
夕 悄 悄 湘 簾 捲 又 垂
230
簾 外 窺 日 出 枝 頭 無 鵲 報
簾 中 坐 夜 來 心 事 只 燈 知
燈 知 若 無 知
妾 悲 只 自 悲
Kỷ độ hoàng hôn thời trùng hiên nhân độc lập
Kỷ hồi minh nguyệt dạ đơn chẩm mấn tà khi
Bất quan trầm dữ hàm hôn hôn nhân tự tuý
Bất quan ngu dữ nọa mộng mộng ý như si
Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại
Quần thối nhu yêu sấu bất chi
Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ
Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ
Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo
Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri
Đăng tri nhược vô tri
Thiếp bi chỉ tự bi
七。愁悶
7. Sầu Muộn
悲 又 悲 兮 更 無 言
235
燈 花 人 影 總 堪 憐
咿 喔 雞 聲 通 五 夜
披 拂 槐 陰 度 八 磚
愁 似 海
刻 如 年
240
強 燃 香 花 魂 消 檀 炷 下
強 臨 鏡 玉 筋 墜 菱 花 前
強 援 琴 指 下 驚 停 鸞 鳳 柱
強 調 瑟 曲 中 悲 遏 鴛 鴦 絃
此 意 春 風 若 肯 傳
245
千 金 借 力 寄 燕 然
燕 然 未 能 傳
憶 君 迢 迢 兮 路 如 天
天 遠 未 易 通
憶 君 悠 悠 兮 思 何 窮
250
懷 人 處 傷 心 胸
樹 葉 青 霜 裡
蛩 聲 細 雨 中
霜 斧 殘 兮 楊 柳
雨 鋸 損 兮 梧 桐
Bi hựu bi hề cánh vô ngôn
Đăng hoa nhân ảnh tổng kham liên
Y ốc kê thanh thông ngũ dạ
Phi phất hòe âm độ bát chuyên
Sầu tự hải
Khắc như niên
Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ
Cưỡng lâm kính ngọc cân trụy lăng hoa tiền
Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ
Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền
Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền
Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên
Yên Nhiên vị năng truyền
Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên
Thiên viễn vị dị thông
Ức quân du du hề tứ hà cùng
Hoài nhân xứ thương tâm hung
Thụ diệp thanh sương lý
Cùng thanh tế vũ trung
Sương phủ tàn hề dương liễu
Vũ cứ tổn hề ngô đồng
255
鳥 返 高 舂
露 下 低 叢
寒 垣 候 虫
遠 寺 曉 鐘
蟋 蟀 數 聲 雨
260
芭 蕉 一 院 風
風 裂 紙 窗 穿 帳 隙
月 移 花 影 上 簾
櫳
花 前 月 照 月 自 白
月 下 花 開 花 自 紅
265
月 花 花 月 兮 影 重 重
花 前 月 下 兮 心 忡 忡
Điểu phản cao thung
Lộ há đê tùng
Hàn viên hậu trùng
Viễn tự hiểu chung
Tất suất sổ thanh vũ
Ba tiêu nhất viện phong
Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích
Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung
Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch
Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng
Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng
Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung
八。失望
8.Thất Vọng
千 般 懶 萬 事 慵
慵 女 工 錦 軸 恥 拋 鴛 對 偶
慵 婦 巧 金 針 羞 刺 蝶 雌 雄
270
慵 粧 對 曉 空 施 粉
慵 語 終 朝 悶 倚 窗
倚 窗 倚 窗 復 倚 窗
郎 君 去 兮 誰 為 容
誰 為 容 兮 空 盤 桓
275
郎 君 去 兮 隔 重 關
何 啻 天 帝 孫 冷 落 泣 銀 渚
何 啻 姮 娥 婦 凄 凉 坐 廣 寒
藉 愁 兮 為 枕
煮 悶 兮 為 餐
280
欲 將 酒 制 愁 愁 重 酒 無 力
欲 將 花 解 悶 悶 壓 花 無 顏
愁 悶 總 為 愁 悶 誤
悶 愁 化 作 九 泉 灘
試 瓊 笙 兮 不 成 響
285
抱 銀 箏 兮 不 忍 彈
思 遠 塞 兮 行 路 難
念 征 夫 兮 囊 索 單
Thiên ban lãn vạn sự dung
Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu
Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng
Dung trang đối hiểu không thi phấn
Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song
Ỷ song ỷ song phục ỷ song
Lang quân khứ hề thuỳ vi dung
Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn
Lang quân khứ hề cách trùng quan
Hà thí Thiên đế tôn lãnh lạc khấp Ngân Chử
Hà thí Hằng Nga phụ thê lương tọa Quảng Hàn
Tạ sầu hề vi chẩm
Chử muộn hề vi xan
Dục tương tửu chế sầu sầu trọng tửu vô lực
Dục tương hoa giải muộn muộn áp hoa vô nhan
Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ
Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than
Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng
Bão ngân tranh hề bất nhẫn đàn
Tư viễn tái hề hành lộ nan
Niệm chinh phu hề nang tác đơn
鵑 聲 啼 落 關 情 淚
樵 鼓 敲 殘 帶 憊 肝
290
不 勝 憔 悴 形 骸 軟
始 覺 睽 離 滋 味 酸
Quyên thanh đề lạc quan tình lệ
Tiều cổ xao tàn đái bại can
Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn
Thủy giác khuê ly tư vị toan
九。望尋
9. Vọng Tầm
滋 味 酸 兮 酸 更 辛
酸 辛 端 的 為 良 人
為 良 人 兮 雙 妾 淚
295
為 良 人 兮 隻 妾 身
妾 身 不 到 君 征 帳
妾 淚 不 到 君 征 巾
惟 有 夢 魂 無 不 到
尋 君 夜 夜 到 江 津
300
尋 君 兮 陽 台 路
會 君 兮 湘 水 濱
記 得 幾 番 歡 會 處
無 非 一 枕 夢 中 春
此 身 反 恨 不 如 夢
305
隴 水 函 關 與 子 親
夢 去 每 憎 驚 更 斷
夢 回 又 慮 幻 非 真
惟 有 寸 心 真 不 斷
未 嘗 頃 刻 少 離 君
310
心 不 離 君 未 見 君
凭 高 幾 度 望 征 輪
望 君 何 所 見
江 洲 滿 白 蘋
燕 草 披 青
縷
315
秦 桑 染 綠 雲
南 來 井 邑 半 兵 塵
落 日 平 沙 鷺 一 群
望 君 何 所 見
官 路 短 長 亭
320
雲 間 吳 樹 暗
Tư vị toan hề toan cánh tân
Toan tân đoan đích vị lương nhân
Vị lương nhân hề song thiếp lệ
Vị lương nhân hề chích thiếp thân
Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng
Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân
Duy hữu mộng hồn vô bất đáo
Tầm quân dạ dạ đáo giang tân
Tầm quân hề Dương Đài lộ
Hội quân hề Tương thuỷ tân
Ký đắc kỷ phiên hoan hội xứ
Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân.
Thử thân phản hận bất như mộng
Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân
Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn
Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân
Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn
Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân
Tâm bất ly quân vị kiến quân,
Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân
Vọng quân hà sở kiến
Giang châu mãn bạch tần
Yên thảo phi thanh lũ
Tần tang nhiễm lục vân
Nam lai tỉnh ấp bán binh trần
Lạc nhật bình sa lộ nhất quần
Vọng quân hà sở kiến
Quan lộ đoản trường đình
Vân gian Ngô thọ ám
天 際 蜀 山 青
北 來 禾 黍 半 荒 城
微 雨 江 樓 笛 一 聲
望 君 何 所 見
325
崆 山 葉 做 堆
自 飛 青 野 雉
自 舞 隔 江 梅
東 去 煙 嵐 慘 不 開
西 風 飄 薄 鳥 聲 哀
330
望 君 何 所 見
河 水 曲 如 鉤
長 空 數 點 雁
遠 浦 一 歸 舟
西 去 松 楸 接 斷 蕪
335
行 人 微 沒 隔 蒼 洲
望 盡 天 頭 又 地 頭
幾 日 登 樓 更 下 樓
凍 雲 阻 盡 相 思 眼
何 處 玉 關 征 戰 陬
Thiên tế Thục sơn thanh
Bắc lai hoà thử bán hoang thành
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh
Vọng quân hà sở kiến
Không sơn diệp tố đôi
Tự phi thanh dã trĩ
Tự vũ cách giang mai
Đông khứ yên lam thảm bất khai
Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai
Vọng quân hà sở kiến
Hà thủy khúc như câu
Trường không sổ điểm nhạn,
Viễn phố nhất quy châu
Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu
Hành nhân vi một cách thương châu
Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu
Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu
Đống vân trở tận tương tư nhãn
Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu
十。懷疑
10. Hoài Nghi
340
恨 無 長 房 縮 地 術
恨 無 仙 子 擲 巾 符
有 心 誠 化 石
無 淚 可 登 樓
回 首 長 堤 楊 柳 色
345
悔 教 夫 婿 覓 封 侯
不 識 離 家 千 里 外
君 心 有 似 妾 心 不
君 心 倘 與 妾 心 似
妾 亦 於 君 何 怨 尤
350
妾 心 如 花 常 向 陽
只 怕 君 心 如 流 光
流 光 一 去 不 復 照
花 為 流 光 黃 又 黃
Hận vô trường phòng súc địa thuật
Hận vô tiên tử trịch cân phù
Hữu tâm thành hóa thạch
Vô lệ khả đăng lâu
Hồi thủ trường đề dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Bất thức ly gia thiên lý ngoại
Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu
Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự
Thiếp diệc ư quân hà oán vưu
Thiếp tâm như hoa thường hướng dương
Chỉ phạ quân tâm như lưu quang
Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu
Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng
花 黃 更 向 誰 邊 笑
355
流 光 不 肯 一 迴 照
黃 花 卻 為 流 光 老
黃 花 老 兮 落 滿 墻
Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu
Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu
Hoàng hoa khước vi lưu quang lão
Hoàng hoa lão hề lạc mãn tường
十一。憂老
11. Ưu Lão
花 落 如 今 經 幾 霜
庭 蘭 兮 已 摘
360
江 藻 兮 又 芳
攝 衣 步 前 堂
仰 目 觀 天 章
纖 雲 時 彷 彿
北 斗 忽 低 昂
365
河 水 翻 明 滅
參 躔 乍 現 藏
月 照 兮 我 床
風 吹 兮 我 牆
玉 顏 隨 年 削
370
丈 夫 猶 他 方
昔 為 形 與 影
今 為 參 與 商
君 邊 雲 擁 青 絲 騎
妾 處 苔 生 嚮
屧
廊
375
廊 內 春 風 日 將 歇
可 憐 誤 盡 良 時 節
良 時 節 姚 黃 魏 紫 嫁 東 風
良 時 節 織 女 牛 郎 會 明 月
昨 日 未 笄 西 家 娘
380
今 年 已 歸 東 鄰 倩
可 怜 兔 守 一 空 房
年 年 誤 盡 良 時 節
良 時 節 兮 忽 如 梭
人 世 青 春 容 易 過
385
況 復 是 春 悶 未 消 秋 恨 續
況 復 是 合 歡 更 少 別 愁 多
Hoa lạc như kim kinh kỷ sương
Đình lan hề dĩ trích
Giang tảo hề hựu phương
Nhiếp y bộ tiền đường
Ngưỡng mục quan thiên chương
Tiêm vân thời phảng phất
Bắc đẩu hốt đê ngang
Hà thuỷ phiên minh diệt
Sâm triền sạ hiện tàng
Nguyệt chiếu hề ngã sàng
Phong xuy hề ngã tường
Ngọc nhan tuỳ niên tước
Trượng phu do tha phương
Tích vi hình dữ ảnh
Kim vi Sâm dữ Thương
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang
Lang nội xuân phong nhật tương yết
Khả liên ngộ tận lương thời tiết
Lương thời tiết Diêu hoàng Nguỵ tử giá Ðông phong
Lương thời tiết Chức nữ Ngưu lang hội minh nguyệt
Tạc nhật vị kê Tây gia nương
Kim niên dĩ quy Ðông lân thiến
Khả linh thố thủ nhất không phòng
Niên niên ngộ tận lương thời tiết
Lương thời tiết hề hốt như thoa
Nhân thế thanh xuân dung dị qua
Huống phục thị xuân muộn vị tiêu thu hận tục
Huống phục thị hợp hoan cánh thiểu biệt sầu đa
別 愁 秋 恨 兩 相 磨
蒲 柳 青 青 能 幾 何
空 漢 惜 淚 咨 嗟
390
只 怕 白 到 文君 頭 空 嘆 惜
只 恐 花 到 潘 郎 鬢 浪咨 嗟
嘆 惜 何 以 為
顏 色 猶 紅 如 嫩 花
咨 嗟 何 以 為
395
光 陰 一 擲 無 回 戈
咨 命 薄 惜 年 花
紛 紛 少 婦 幾 成
皤
香 閣 重 懷 陪 笑 臉
花 樓 尚 記 解 香 羅
400
恨 天 不 與 人 方 便
底 事 到 今 成 坎 坷
坎 坷 坎 坷 知 奈 何
為 妾 嗟 兮 為 君 嗟
Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma
Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà
Không thán tích lệ tư ta
Chỉ phạ bạch đáo Văn Quân đầu không thán tích
Chỉ khủng hoa đáo Phan lang mấn lãng tư ta
Thán tích hà dĩ vi
Nhan sắc do hồng như nộn hoa
Tư ta hà dĩ vi
Quang âm nhất trịch vô hồi qua
Tư mệnh bạc tích niên hoa
Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà
Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm
Hoa lâu thượng ký giải hương la
Hận thiên bất dữ nhân phương tiện
Để sự đáo kim thành khảm kha
Khảm kha khảm kha tri nại hà
Vị thiếp ta hề vị quân ta
十二。願約
12. Nguyện Ước
君 不 見 野 外 雙 鴛 鴦
405
甘 心 不 忍 兩 分 張
又 不 見 樑 間 雙 燕 燕
白 首 何 曾 忘 眷 戀
鶼 鶼 也 無 情
比 翼 相 隨 過 一 生
410
蛩 蛩 也 無 知
並 驅 到 老 不 相 違
路 柳 曾 傳 連 理 處
池 蓮 亦 有 並 頭 時
負 蟨 兮 駏 驉
415
抱 蘿 兮 菟 絲
何 人 生 之 相 違
嗟 物 類 之 如 斯
安 得 在 天 為 比 翼 鳥
Quân bất kiến dã ngoại song uyên ương
Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương
Hựu bất kiến lương giang song yến yến
Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến
Kiêm kiêm dã vô tình
Tỷ dực tương tuỳ quá nhất sinh
Cùng cùng dã vô tri
Tịnh khu đáo lão bất tương vi
Lộ liễu tằng truyền liên lý xứ
Trì liên diệc hữu tịnh đầu thời
Phụ quyết hề cự hư
Bão la hề thố ty
Hà nhân sinh chi tương vi
Ta vật loại chi như tư
An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu
在 地 為 連 理 枝
420
寧 甘 死 相 見
不 忍 生 相 離
雖 然 死 相 見
曷 若 生 相 隨
安 得 君 無 老 日
425
妾 常 少 年
願 為 影 兮 隨 君 邊
君 有 行 兮 影 不 遠
君 依 光 兮 妾 如 願
願 君 許 國 心 如 丹
430
願 君 庇 民 身 如 鐵
饑 來 吞 下 月 氏 頭
渴 來 飲 下 單 于 血
Tại địa vi liên lý chi
Ninh cam tử tương kiến
Bất nhẫn sinh tương ly
Tuy nhiên tử tương kiến
Hạt nhược sinh tương tuỳ
An đắc quân vô đáo lão nhật
Thiếp thường thiếu niên
Nguyện vi ảnh hề tuỳ quân biên
Quân hữu hành hề ảnh bất viễn
Quân y quang hề thiếp như nguyện
Nguyện quân hứa quốc tâm như đan
Nguyện quân tỳ dân thân như thiết
Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu
Khát lai ẫm hạ Thiền Vu huyết
十三。懇求
13. Khẩn Cầu
何 幸 期 門 鋒 刃 中
老 天 著 意 護 英 雄
435
護 英 雄 百 戰 功
長 驅 駟 馬 靜 關 東
關 東 關 北 休 傳 箭
山 尾 山 頭 早 掛 弓
捷 色 旌 旗 辭 塞 月
440
凱 歌 將 士 背 邊 風
勒 詩 兮 燕 然 石
獻
馘
兮 未 央 宮
未 央 宮 兮 向 天 朝
挽 銀 河 兮 洗 刀 弓
445
詞 人 刪 下 平 淮 頌
樂 府 歌 傳 入 漢 謠
凌 煙 閣 兮 秦 叔 寶
麒 麟 台 兮 霍 嫖 姚
天 長 地 久 茅 苴 券
450
子 蔭 妻 封 爵 祿 標
Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung
Lão thiên trước ý hộ anh hùng
Hộ anh hùng bách chiến công
Trường khu tứ mã tịnh quan Ðông
Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn,
Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung
Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt
Khải ca tướng sĩ bối biên phong
Lặc thi hề Yên Nhiên thạch
Hiến quắc hề Vị Ương cung
Vị Ương cung hề hướng thiên triều
Vãn Ngân hà hề tẩy đao cung
Từ nhân san hạ Bình Hoài Tụng
Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao
Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu
Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu
Thiên trường địa cửu mao thư khoán
Tử ấm thê phong tước lộc tiêu
有 愁 兮 此 日
得 意 兮 來 時
妾 非 蘇 家 癡 心 婦
君 亦 洛 陽 好 男 兒
455
歸 來 倘 佩 黃 金 印
肯 學 當 年 不 下 機
願 為 君 兮 解 征 衣
願 為 君 兮 捧 霞
巵
為 君 梳 櫛 雲
鬟
髻
460
為 君 粧 點 玉
臙
脂
取 君 看 兮 舊 淚 帕
訴 君 聽 兮 舊 情 詞
舊 情 詞 兮 換 新 聯
語 新 話 舊 兮 酒 杯 前
465
淺 斟 兮 慢 慢
底 唱 兮 連 連
斟 不 斟 兮 蒲 城 釀
唱 不 唱 兮 紫
騮
篇
願 斟 九 醞 兮 唱 雙 聯
470
與 君 整 頓 兮 舊 姻 緣
交 頸 成 雙 到 老 天
償 了 功 名 離 別 債
相 憐 相 守 太 平 年
太 平 年 願 君 止 戈 置
475
若 然 此 別 妾 何 淚
將 會 之 期 將 寄 言
嗟 乎 丈 夫 當 如 是
Hữu sầu hề thử nhật
Đắc ý hề lai thời
Thiếp phi Tô gia si tâm phụ
Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi
Quy lai thảng bội hoàng kim ấn
Khẳng học đương niên bất há ky
Nguyện vi quân hề giải chinh y
Nguyện vi quân hề bổng hà chi
Vi quân sơ trất vân hoàn kế
Vi quân trang điểm ngọc yên chi
Thủ quân khan hề cựu lệ phạ
Tố quân thính hề cựu tình từ
Cựu tình từ hề hoán tân liên
Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền
Thiển châm hề mạn mạn
Đê xướng hề liên liên
Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng
Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên
Giao kỉnh thành song đáo lão thiên
Thường liễu công danh ly biệt trái
Tương liên tương thủ thái bình niên
Thái bình niên nguyện quân chỉ qua trí
Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ
Tương hội chi kỳ tương ký ngôn
Ta hồ trượng phu đương như thị
Chú Thích
1. Các tiểu đề 1-13 và ngắt dòng theo Hoàng Xuân Hãn, Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo.
2. Chữ Việt được đánh dấu trên nguyên âm thay vì trên bán âm theo Nguyễn Ðình
Hoà và Phạm Văn Hải.
Thí dụ 1: Trong chữ “hoà”, o là bán âm, a là nguyên âm, nếu đánh dấu trên
mẫu tự o theo lối xưa: “hò-a” không phát đúng âm của chữ.
--Bản dịch của Đoàn Thị Điểm--
Chinh Phụ Ngâm
Nguyên tác chữ Hán của tiên sinh Đặng Trần Côn,
được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm
Tiểu sử Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm:
Bà Đoàn Thị Điểm nguyên họ Đoàn, lấy chồng họ Nguyễn, lại theo họ chồng thường gọi là Nguyễn Thị Điểm, người làng Hiếu Phạm, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Bà là em gái ông Giám Sinh (tiến sĩ) Đoàn Luân, biệt hiệu là Hồng Hà Nữ Sĩ, sinh đầu thế kỷ XVIII đời Lê. Tư chất bà rất thông minh, từ năm lên sáu tuổi đă học đến Sử Kư.
Một hôm, ông Luân lấy chữ Sử Kư Hán Cao Tổ ra cho bà một câu nguyên văn:
"Bạch xà đương đạo, Quí bạt kiếm nhi trảm chi"
(Con rắn trắng đón đường, ông Quí rút gươm mà chém đấy).
Bà liền lấy một câu nguyên văn ở Sử Kư, điển ông Vũ đời Thuấn mà đối rằng:
"Hoàng Long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết"
(Con rồng vàng đội chiếc thuyền, ông Vũ trông trời mà than rằng).
Đối như vậy mỗi chữ xứng nhau, lại dùng cả chữ ở nguyên văn Sử Kư.
Lại một hôm, bà soi gương, ông Luân ra câu đối rằng:
"Đối kỉnh họa my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm"
(Soi gương vẽ mày, một chấm hóa ra hai chấm).
Câu này có chữ Điểm nghĩa là chấm, lại là tên của bà.
Bà đối ngay lại rằng:
"Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân"
(Đến ao xem trăng, một vành hiện ra hai vành).
Chữ Luân là vành lại là tên ông Luân. Đối có tài và lanh, thật đáng gọi là Tiên Phận Thiên Tài khá cao vậy.
Khi có sứ Tàu sang, bà giả làm người bán quán rượu. Sứ Tàu vào uống rượu thấy bà đang biên sổ, lại thấy ở cột quán rượu có lắm câu đối hay, và bên ghế bà ngồi có nhiều sách vở, mới ra cho bà một câu đối rằng:
"An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh"
(An Nam một tấc đất, chẳng biết mấy người cày) - có ư xấc ngạo và ghẹo chọc.
Bà đối ngay rằng:
"Bắc quốc chư đại phu, giai nho thử đồ xuất"
(Nước Bắc (Tàu) các vị đại phu thảy do đường ấy mà ra cả).
Bà cũng đáp lời phúng thích lại chẳng chịu kém ư lời ra đối. Các sứ giả chịu tài và cũng lấy làm thẹn.
Bà có tài học cao siêu nên phải ở nơi địa vị kén chồng, muốn kén cả người có đủ tài ba và môn hộ tương đương, nên đă lâu không có người vừa ư. Sau bà đă ba mươi tuổi, mới kết duyên làm thứ nhất ông Nguyễn Kiều, làm quan Thượng Thư, hiệu là Hạo Hiên, cùng nhau ở chốn khuê pḥng yêu kính đáng gọi là "Tương Kính Như Tân".
Khi ông mất, học trọ̀ ông theo học với bà. Bà mở trường dạy học, măi đến bảy mươi tuổi mới từ trần.
Bà có soạn tập "Tục Truyền Kỳ" và diễn Nôm bài "Chinh Phụ Ngâm" này.
Chinh Phụ Ngâm gồm 12 hồi sau:
1- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
2- Xếp bút nghiên theo việc đao cung
3- Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai
4- Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
5- Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
6- Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
7- Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ?
8- Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
9- Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
10- Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
11- Tiếng khải ca trở lại thần kinh
12- Giữ gìn nhau vui thuở thái bình
=========================================
1- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
1. Thủa trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ?
2- Xếp bút nghiên theo việc đao cung
5. Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ.
10. Aáo nhung trao quan vũ từ đây.
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
15. Bóng cờ tiếng trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
20. Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.
3- Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai
25. Ngòi đầu cầu, nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa,
30. Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San.
35. Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo,
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử,
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba,
Aáo chàng đỏ tựa ráng pha,
40. Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia taỵ
Hà Lương chia rẽ đường này,
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
45. Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương,
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương, biết thiếp đoạn trường này chăng ?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
50. Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.
55. Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh,
Chốn Hàm Dương, chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương, thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
60. Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?
4- Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
65. Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mát phương nao ?
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu.
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
70. Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.
?m yên gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
75. Hình khe, thế núi gần xa,
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như giội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu.
Thương người áo giáp bấy lâu,
80. Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ?
Tưởng chàng giong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan.
85. Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương !
5- Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo,
90. Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ?
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước,
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu ?
95. Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
100. Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.
105. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành.
Aáng công danh trăm đường rộn rã,
110. Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
6- Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Trong cửa này đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay ?
115. Những mong cá nước sum vầy,
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn.
Cớ sao cách trở nước non,
120. Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu.
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành.
125. Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục, oanh già,
Yý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió,
130. Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông.
Nay đào đã quyến gió Đông,
Phù dung lại đã bên sông bơ sờ.
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm ?
135. Ngập ngừng, lá rụng cành trâm,
Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao ?
Ngập ngừng gió thổi chéo bào,
140. Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại, người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ.
145. Thư thường tới, người không thấy tới,
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai.
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
150. Tiền sen này đã nẩy à ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương.
155. Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
160. Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mể biết bao !
Nhớ chàng trải mấy sương sao ,
Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư.
165. Kể năm đã ba tư cách diễn,
Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang.
?ớc gì gần gũi tấc gang,
Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,
170. Gương lầu Tần dấu đã soi chung.
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.
175. Cậy ai mà gửi tới nơi,
Để chàng trân trọng dấu người tương thân.
7- Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Trải mấy xuân, tin đi tin lại,
Tới xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhàn , luống tưởng thư phong,
180. Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.
Gió tây nổi không đường hồng tiện ,
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
185. Đề chữ gấm , phong thôi lại mở,
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai, hồn say bóng lẫn,
190. Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng,
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
195. Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
200. Hoa đèn kia với bóng người khá thương !
Gà eo óc gáy sương năm trống ,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên .
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
205. Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan .
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Lòng này gửi gió đông có tiện,
210. Nghìn vàng xin gửi đến non Yên .
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
215. Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu,
Mưa dường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù ,
220. Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc ,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
225. Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau.
Đâu xiết kể, muôn sầu nghìn não,
230. Từ nữ công , phụ xảo đều nguôi.
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song.
235. Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ?
Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng, ngoài cõi Giang Lăng
Khác gì ả Chức, chị Hằng,
240. Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng.
8- Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối,
Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.
245. Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng,
?m đàn tranh mấy phím rời tay.
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt,
250. Trống tiều khua, như rứt buồng gan.
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường này.
Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ,
Chua cay này, há có vì ai ?
255. Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn.
Duy còn hồn mộng được gần,
260. Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.
Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân.
265. Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.
Khi mơ những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không !
Duy có một tấm lòng chẳng dứt,
270. Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi.
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến Nam, bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh.
275. Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách,
Mây rà cây xanh ngất núi non.
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
280. Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
Non Đông thấy lá hầu chất đống,
Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai.
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
285. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu.
Ngàn thông chen chúc chòm lau,
Cách duềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bề chân trời mặt đất,
290. Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen.
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan?
9- Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên.
295. Lòng này hóa đá cũng nên,
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,
300. Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng ?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa.
Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
305. Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương.
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần.
Chồi lan nọ trước sân đã hái,
310. Ngọn tần kia bên bãi đưa hương.
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẩn thờ.
Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ,
Độ Khuê Triền buổi có buổi không.
315. Thức mây đòi lúc nhạt nồng,
Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô.
Lạnh lùng thay bấy chiều thu,
320. Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi.
Một năm một nhạt mùi son phấn,
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương.
325. Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in.
Gió Xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy,
330. Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.
Nọ thì ả Chức chàng Ngâu,
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thương một kẻ phòng không luống giữ,
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau.
335. Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh.
10- Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Xuân thu để giận quanh ở dạ,
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,
340. Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gã Phan Lang,
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng.
345. Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở,
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ dòng.
Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt,
350. Lầu hoa kia phảng phất hơi hương.
Trách trời sao để lỡ làng,
Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội,
Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương.
355. Chẳng xem chim yến trên rường,
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen là thức cỏ cây,
360. Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền.
?ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy đây ?
Thiếp xin muôn kiếp sau này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
365. Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,
370. Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên.
Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền,
Mọi bề trung hiều thiếp xin vẹn tròn.
11- Tiếng khải ca trở lại thần kinh
Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,
Sức tỳ dân dường sắt tri tri.
375. Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi,
?ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn.
Mũi đòng vác đòi lần hăm hở,
Đã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
380. Buông tên ải Bắc, treo cung non Đoài.
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh.
Đỉnh non khắc đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đình dâng công.
385. Nước duềnh Hán việc đòng rửa sạch,
Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân.
Nền huân tướng đai cân rạng vẻ,
390. Chữ đồng hưu bia để nghìn đông.
?n trên tử ấm thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
12- Giữ gìn nhau vui thuở thái bình
Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ,
Chàng hẳn không kém lũ Lạc Dương.
395. Khi về chẳng quả ấn vàng,
Trên khung cửi dám dẫy duồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng giũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
400. Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu,
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
405. Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca dần ren rén đòi liên.
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ,
410. Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.
Ngâm nga mong gửi chữ tình,
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu !