Chung Nam Sơn
Nguyên tác: Vương Duy
終南山
王維
太乙近天都,
連山到海隅.
白雲迴望合,
青靄入看無.
分野中風變,
陰晴眾壑殊.
欲投人處宿,
隔水問樵夫.
Chung Nam Sơn
Vương Duy
Thái ất cận thiên đô,
Liên sơn đáo hải ngung.
Bạch vân hồi vọng hợp,
Thanh ải nhập khan vô.
Phân dã trung phong biến,
Âm tình chúng hác thù.
Dục đầu nhân xứ túc,
Cách thủy vấn tiều phu.
Chú thích: 1/ Thái Ất, tên khác của núi Chung Nam, nằm phía nam kinh thành Trường An, cách khoảng 60 dặm. 2/ hải, nghĩa thông thường là biển, nghĩa trong bài là hồ lớn. Vì kinh đô Trường An cách biển đông gần 1000 km đường chim bay.
--Dịch nghĩa:--
Núi Chung Nam
Núi Thái Ất gần kinh đô,
rặng núi chạy tới hồ lớn.
Nhìn từ xa thấy có mây trắng, khí núi màu xanh;
lại gần không thấy gì cả.
Từ giữa núi, địa khu thay đổi [bắc là Ung châu, nam là Kinh châu],
khi trời trong thấy núi non và hang hốc có hình thù khác biệt. ;
[trời đã về chiều] muốn tìm nhà ngủ nhờ,
cất tiếng hỏi thăm bác tiều phu bên kia suối.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Núi Thái Ất gần kinh tráng lệ
Rặng chạy dài tới bể mông mênh
Xa nhìn mây trắng khí xanh
Lại gần chẳng thấy gì quanh núi rừng
Từ giữa núi tên vùng thay đổi
Khi trời trong cảnh núi khác nhau
Trời chiều nhà trọ tìm đâu ?
Cách khe vang gọi bác tiều hỏi thăm
--Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn--
Thái Ất gần kinh đô
Núi dừng lại bên hồ
Dáng xanh trong mây trắng
Tới ... phảng phất như mơ
Vào sâu cảnh đổi thay
Nét khác biệt đó đây
Muốn tìm nơi nghỉ tạm
Vọng hỏi tiều bến này
--Bản dịch của Viên Thu--
Núi Chung nam
Núi cao Thái ất cận kinh đô,
Cả rặng dàn xa đến tận hồ.
Mây trắng quay nhìn mờ hội tụ,
Khí xanh thoáng thấy phả hư vô.
Giữa non, địa thế phân chia rõ,
Quanh cảnh, hốc hang biến hóa mù.
Chiều xuống muốn tìm nơi trú ngụ,
Cách khe vọng hỏi bác tiều phu.
--Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu--
Chung Nam gần cửa khuyết,
Núi tiếp biển gần bờ.
Mây trắng trông mù mịt,
Hơi xanh thấy mập mờ.
Đất chia sườn núi đổi,
Trời tạnh hốc hang trơ.
Gặp chú tiều bên suối,
Hỏi nhà ai nghỉ nhờ.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Kinh đô, Thái-Ất ở gần,
Núi non tiếp nối chạy dần ra khơi.
Ngó lai, mây trắng phủ rồi,
Mây xanh đi tới trông thời lại không.
Núi non ở giữa chia đồng,
Khi trời tạnh ráo thấy cùng các hang.
Muốn nhờ nơi ngủ qua đàng,
Cách dòng suối, hỏi tiều đang đốn cành…
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Chung Nam sơn cận kinh đô
Núi tiếp dài hồ lớn chắn.
Xa ngóng nhìn đùn mây trắng
Khí núi xanh đến mơ hồ.
Trên non thay đổi địa khu
Trời trong hang khác hình thù.
Chiều xuống muốn tìm nhà ngủ
bên này suối hỏi tiều phu.
Nguyên tác: Vương Duy
終南山
王維
太乙近天都,
連山到海隅.
白雲迴望合,
青靄入看無.
分野中風變,
陰晴眾壑殊.
欲投人處宿,
隔水問樵夫.
Chung Nam Sơn
Vương Duy
Thái ất cận thiên đô,
Liên sơn đáo hải ngung.
Bạch vân hồi vọng hợp,
Thanh ải nhập khan vô.
Phân dã trung phong biến,
Âm tình chúng hác thù.
Dục đầu nhân xứ túc,
Cách thủy vấn tiều phu.
Chú thích: 1/ Thái Ất, tên khác của núi Chung Nam, nằm phía nam kinh thành Trường An, cách khoảng 60 dặm. 2/ hải, nghĩa thông thường là biển, nghĩa trong bài là hồ lớn. Vì kinh đô Trường An cách biển đông gần 1000 km đường chim bay.
--Dịch nghĩa:--
Núi Chung Nam
Núi Thái Ất gần kinh đô,
rặng núi chạy tới hồ lớn.
Nhìn từ xa thấy có mây trắng, khí núi màu xanh;
lại gần không thấy gì cả.
Từ giữa núi, địa khu thay đổi [bắc là Ung châu, nam là Kinh châu],
khi trời trong thấy núi non và hang hốc có hình thù khác biệt. ;
[trời đã về chiều] muốn tìm nhà ngủ nhờ,
cất tiếng hỏi thăm bác tiều phu bên kia suối.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Núi Thái Ất gần kinh tráng lệ
Rặng chạy dài tới bể mông mênh
Xa nhìn mây trắng khí xanh
Lại gần chẳng thấy gì quanh núi rừng
Từ giữa núi tên vùng thay đổi
Khi trời trong cảnh núi khác nhau
Trời chiều nhà trọ tìm đâu ?
Cách khe vang gọi bác tiều hỏi thăm
--Bản dịch của Nguyễn Tâm Hàn--
Thái Ất gần kinh đô
Núi dừng lại bên hồ
Dáng xanh trong mây trắng
Tới ... phảng phất như mơ
Vào sâu cảnh đổi thay
Nét khác biệt đó đây
Muốn tìm nơi nghỉ tạm
Vọng hỏi tiều bến này
--Bản dịch của Viên Thu--
Núi Chung nam
Núi cao Thái ất cận kinh đô,
Cả rặng dàn xa đến tận hồ.
Mây trắng quay nhìn mờ hội tụ,
Khí xanh thoáng thấy phả hư vô.
Giữa non, địa thế phân chia rõ,
Quanh cảnh, hốc hang biến hóa mù.
Chiều xuống muốn tìm nơi trú ngụ,
Cách khe vọng hỏi bác tiều phu.
--Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu--
Chung Nam gần cửa khuyết,
Núi tiếp biển gần bờ.
Mây trắng trông mù mịt,
Hơi xanh thấy mập mờ.
Đất chia sườn núi đổi,
Trời tạnh hốc hang trơ.
Gặp chú tiều bên suối,
Hỏi nhà ai nghỉ nhờ.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Kinh đô, Thái-Ất ở gần,
Núi non tiếp nối chạy dần ra khơi.
Ngó lai, mây trắng phủ rồi,
Mây xanh đi tới trông thời lại không.
Núi non ở giữa chia đồng,
Khi trời tạnh ráo thấy cùng các hang.
Muốn nhờ nơi ngủ qua đàng,
Cách dòng suối, hỏi tiều đang đốn cành…
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Chung Nam sơn cận kinh đô
Núi tiếp dài hồ lớn chắn.
Xa ngóng nhìn đùn mây trắng
Khí núi xanh đến mơ hồ.
Trên non thay đổi địa khu
Trời trong hang khác hình thù.
Chiều xuống muốn tìm nhà ngủ
bên này suối hỏi tiều phu.