• Kể từ khi các bạn đọc được Thông báo này. Tất cả Khách truy cập trên Văn Đàn chỉ có thể xem bài viết và không thể gửi được góp ý hay ý kiến cá nhân. Vui lòng bạn hãy Đăng Ký để trở thành một thành viên của Văn Đàn, các bạn mới có đầy đủ quyền truy cập trên Văn Đàn. Việc Đăng Ký hoàn toàn miễn phí và rất nhanh chóng.
    Thân!

Cổ Thi Trung Quốc Cổ bách hành

Thiên Sầu
  • Lượt xem 874
  • Trả lời: 0
Cổ bách hành
Nguyên tác: Đỗ Phủ
古柏行
杜甫
孔明廟前有老柏, 柯如青銅根如石.
霜皮溜雨四十圍, 黛色參天二千尺.
君臣已與時際會, 樹木猶為人愛惜.
雲來氣接巫峽長, 月出寒通雪山白.
憶昨路繞錦亭東, 先主武侯同悶宮.
崔嵬枝幹郊原古, 窈窕丹青戶牖空.
落落盤踞雖得地, 冥冥孤高多烈風.
扶持自是神明力, 正直原因造化功.
大廈如傾要梁棟, 萬牛迴首邱山重.
不露文章世已驚, 未辭剪伐誰能送.
苦心豈免容螻蟻, 香葉終經宿鸞鳳.
志士幽人莫怨嗟, 古來材大難為用.
Cổ bách hành
Đỗ Phủ
Khổng Minh miếu tiền hữu lão bách, kha như thanh đồng căn như thạch.
Sương bì lưu vũ tứ thập vi, đại sắc tham thiên nhị thiên xích.
Quân thần dĩ dữ thời tế hội. thụ mộc do vi nhân ái tích.
Vân lai khí tiếp Vu giáp trường, nguyệt xuất hàn thông tuyết sơn bạch.
Ức tạc lộ nhiễu Cẩm đình đông, Tiên chủ Vũ hầu đồng muộn cung.
Thôi ngôi chi cán giao nguyên cổ, yểu điệu đan thanh hộ dũ không.
Lạc lạc bàn cứ tuy đắc địa, minh minh cô cao đa liệt phong.
Phù trì tự thị thần minh lực, chính trực nguyên nhân tạo hóa công.
Đại hạ như khuynh yêu lương đống, vạn ngưu hồi thủ khâu sơn trọng.
Bất lộ văn chương thế dĩ kinh, vị từ tiễn phạt thùy năng tống.
Khổ tâm khởi miễn dung lâu nghị, hương diệp chung kinh túc loan phụng.
Chí sĩ u nhân mạc oán ta, cổ lai tài đại nan vi dụng.
Chú thích: 1/ Tác giả Đỗ Phủ viết bài này khoảng năm 766. Lúc đó vì Thành Đô có loạn, ông và gia quyến rời thảo đường tới tạm trú tại Quỳ châu (nay trong huyện Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên]. Miếu thờ Khổng Minh là một trong các thắng cảnh của vùng này. Cây bách trồng trước miếu ông tả trong bài dễ cũng đã vài trăm tuổi. 2/ Khổng Minh, là tên tự của Gia Cát Lượng, người thời Tam Quốc, đã giúp Lưu Bị mở ra nước Tây Thục. 3/ Vu giáp, tên con kẽm trên sông Trường Giang, đoạn nằm trong huyện Ba tỉnh Hồ Bắc. 4/ Cẩm đình, ám chỉ thảo đường của tác giả, nằm bên sông Cẩm khúc gần Thành Đô (thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên). 5/ Tiên chủ, tức Lưu Bị. 6/ Vũ hầu, là tước hiệu Lưu Bị phong cho Khổng Minh.
Dịch nghĩa:
Bài hành cho cây bách nhiều tuổi
Trước miếu thờ Khổng Minh có một cây bách già ;
thân và cành cứng như đồng xanh, rễ [nổi trên đất cứng] như đá.
Vỏ cây xù xì vì sương và mưa, thân bốn chục người ôm mới xuể ;
toàn cây sắc xanh đen vươn lên trời hai ngàn thước cao.
[Ngày xưa] vua [Lưu Bị] và bầy tôi [Khổng Minh] có lúc đã gặp gỡ [bên cây này] ;
[nên nay] người đời vẫn thương yêu cây này.
Mây khói kéo dài từ kẽm Vu tới ;
trăng nhô lên chiếu sáng lạnh lẽo tới núi cao phủ tuyết.
Nhớ lúc trước khi đi chơi quanh phía đông đình Cẩm ;
thấy Tiên chủ và Vũ hầu được thờ chung trong một miếu.
Thân và cành cao ngất nghểu trên bình nguyên ngoài thành ;
màu sắc u tịch nhìn thấy qua cửa [miếu] hoang vắng.
Tuy gặp đất tốt mọc cao lớn như thế ;
nhưng vì cao chót vót và lẻ loi nên vẫn phải hứng chịu các cơn gió mạnh.
Đành rằng đã có sức thần đất phù trì ;
nhưng mọc ngay ngắn còn do tài khéo của thợ trời.
[Giả thử] nhà lớn xiêu vẹo cần thay cột kèo mới ;
[nếu đốn cây này] mười ngàn trâu kéo cũng chào thua vì cây nặng như núi gò.
[Cây vô tri] không biểu lộ văn chương, nhưng người đời vẫn kinh sợ [oai Vũ hầu];
không từ chối việc bị đốn chặt, vì đốn xong ai mang đi nổi [quá to và nặng].
Há chẳng đã khổ tâm vì dế, kiến làm tổ;
lại còn loan phượng vì lá thơm mà đến trú ngụ lâu dài nữa.
Người có chí khí cao và những người ở ẩn chớ than vãn;
[vì] từ xưa tới nay những người tài giỏi rất khó dùng.
--Bản dịch của Viên Thu - Nguyễn Minh--
Bài hành cho cây bách nhiều tuổi
Cây bách già nơi miếu Khổng Minh,
Rễ như đá, gốc tựa đồng đanh.
Bốn mươi ôm, gốc sương xù vỏ,
Đen biếc hai ngàn thước vút thanh.
Nơi đấy chúa tôi từng gặp gỡ,
Cây này dân chúng mến xưa nay.
Mây hoang theo kẽm Vu tràn đến,
Trăng lạnh soi non tuyết rạng ngời.
Nhớ trước dạo chơi đình Cẩm đông,
Vũ hầu, Tiên chủ miếu thờ chung.
Trên đồng, cành nhánh vươn cao ngát,
Qua cửa, sắc màu lắng tịch không.
Sừng sững cây cao nhờ thế đất,
Đơn côi thân vút hứng cuồng phong.
Đành rằng có sức thần phù hộ,
Ngay thẳng dáng hình bởi hóa công.
Nhà lớn xiêu, cần thay trụ cột,
Vạn trâu chẳng sức chuyển non cùng.
Văn chương chi đấy, nhưng người sợ,
Hãy đốn, nhưng mà kéo nổi không.
Những kiến dế làm tâm khốn khổ,
Lại loan phượng quậy bởi thơm nồng.
Cao nhân ẩn sĩ đừng than trách,
Người giỏi xưa nay vốn khó dùng.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Trước miếu thờ Khổng Minh có bách
Thân và cành cứng ngắc như đồng
Vỏ xù xì, bốn mươi vòng
Toàn cây xanh thẫm, hai ngàn thước cao
Xưa vua tôi đã tao ngộ trước
Bên cây này nên được đời thương
Núi Vu mây khói vấn vương
Trăng nhô lên chiếu sáng sườn núi xanh
Nhớ lúc trước chơi quanh đình Cẩm
Thấy Tiên vương và Vũ hầu chung
Thân cành cao ngất trong vùng
Sắc màu u tịch nhìn hoang vắng buồn
Gặp đất tốt cao vươn như thế
Cũng vì cao nên dễ gió vần
Đành rằng đã có sức thần
Nhưng lên ngay ngắn còn phần hóa công
Nhà lớn xiêu cần rường cột mới
Mười ngàn trâu kéo vội chào thua
Không văn chương, uy có thừa
Không từ đốn chặt, ai đưa được về?
Há chẳng khổ tâm vì dế, kiến
Lại còn loan phượng đến vì thơm
Chí cao, ẩn sĩ chớ than
Từ xưa nay vốn cao nhân khó dùng.
 
Top Bottom