Cổ Kiếm Thiên
Nguyên tác: Quách Chấn
古劍篇
郭震
君不見
昆吾鐵冶飛炎煙,
紅光紫氣俱赫然。
良工鍛煉凡幾年,
鑄得寶劍名龍泉。
龍泉顏色如霜雪,
良工咨嗟嘆奇絕。
琉璃玉匣吐蓮花,
錯鏤金環映明月。
正逢天下無風塵,
幸得用防君子身。
精光黯黯青蛇色,
文章片片綠龜鱗。
非直接交遊俠子,
亦曾親近英雄人。
何言中路遭棄捐,
零落飄淪古獄邊。
雖復沉埋無所用,
猶能夜夜氣衝天。
Cổ Kiếm Thiên
Quân bất kiến:
Côn Ngô thiết dã phi viêm yên,
Hồng quang tử khí câu hách nhiên.
Lương công đoán luyện phàm kỷ niên,
Chú đắc bảo kiếm danh Long Tuyền.
Long Tuyền nhan sắc như sương tuyết,
Lương công tư ta thán kỳ tuyệt.
Lưu ly ngọc hạp thổ liên hoa,
Thác lũ kim hoàn ánh minh nguyệt.
Chính phùng thiên hạ vô phong trần,
Hạnh đắc dụng phòng quân tử thân.
Tinh quang ảm ảm thanh xà sắc,
Văn chương phiến phiến lục quy lân.
Phi trực kết giao du hiệp tử,
Diệc tằng thân cận anh hùng nhân.
Hà ngôn trung lộ tao khí quyên,
Linh lạc phiêu luân cổ ngục biên.
Tuy phục trầm mai vô sở dụng,
Do năng dạ dạ khí xung thiên.
Quách Chấn
Chú thích:1/ Tác giả QC thông minh dĩnh ngộ, năm 18 tuổi đã đậu tiến sĩ, được bổ làm huyện uý Thông Tuyền, xử đoán công việc ngang tàng hào hiệp, không câu nệ theo tiểu tiết pháp luật. Vũ hậu biết được, triệu về hạch hỏi. Đến khi trò chuyện, thấy là người lạ, bèn hỏi tới văn chương trước tác lúc bình nhật, QC dâng bài thơ này. Vũ hậu xem xong rất khen ngợi, truyền đưa cho bọn Học sĩ Lý Kiều đọc. Từ đó QC bắt đầu được trọng dụng, có lúc lên tới binh bộ thượng thư.
--Dịch nghĩa:--
Bài Ca Về Cây Kiếm Cổ
Bạn thấy chăng:
Thép nung vùng Côn Ngô bay khói nóng,
Dù hồng hay tía thì thép luôn đỏ rực.
Thợ đúc thiện nghệ rèn luyện trong nhiều năm,
mới hoàn thành thanh kiếm quý đặt tên là Long Tuyền.
Màu sắc [kiếm] Long Tuyền [mờ ảo] như sương tuyết,
thợ đúc rành nghề đều tán thán là kỳ lạ và tuyệt vời.
Vỏ kiếm dát ngọc lưu ly hình hoa sen,
chạm khắc[ thêm] vòng vàng lấp lánh dưới trăng sáng.
Chính gặp lúc [thái bình] không gió bụi,
may được người quân từ dùng để phòng thân.
[Lưỡi kiếm] phát ra sắc thẫm như da rắn xanh,
[chuôi kiếm] có các vằn như vẩy mai rùa xanh.
Không được làm bạn với những trang hiệp khách,
thì cũng thân cận vói các bực anh hùng.
Sao lại nói bị vứt bỏ giữa đường,
hay rơi rụng bị vùi lấp bên ngục cổ.
Dù có bị chôn vùi không dùng đến nữa,
nhưng khí kiếm đêm đêm vẫn bốc lên tới trời.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Bạn thấy chăng:
Thép nung vùng Côn Ngô khói toả
Dù tía hồng vẫn đỏ liền liền
Thợ nghề rèn đúc nhiều niên
Mới xong kiếm báu đặt tên Long Tuyền
Màu sắc kiếm Long Tuyền sương tuyết
Ai cũng khen trác tuyệt lạ kỳ
Vỏ sen cẩn ngọc lưu ly
Vòng vàng lấp lánh thầm thì dưới trăng
Gặp chính lúc yên không giặc giã
May được dùng quân tử phòng thân
Lưỡi mang đậm sắc rắn xanh
Chuôi nhiều vẩy tựa rùa xanh mai ngà
Không được bạn với nhà hào hiệp
Cũng làm thân với khách anh hùng
Ai đồn bị bỏ giữa đường?
Hoặc là bị lấp vùi trong ngục tù?
Thân này vùi lấp cho dù
Đêm đêm khí kiếm vẫn đu tới trời.
--Bản dịch của Viên Thu--
Anh có thấy:
Thép Côn Ngô khói nóng rèn trui,
Dầu tía, hồng trông cũng đỏ ngời.
Thợ đúc tài nhiều năm khổ luyện,
Nên Long Tuyền kiếm báu này đây.
Sắc gươm lấp lánh như sương tuyết,
Dân chúng đều khen tuyệt lạ đời.
Vỏ cẩn ngọc hình sen khéo léo,
Chạm vàng rạng rỡ dưới trăng soi.
Gặp hồi không chiến chinh yên ả,
May được cùng quân tử sánh đôi.
Sắc thẩm tựa da loài rắn biếc,
Chuôi vằn như vẩy mai rùa thay.
Không gần gủi với trang hào hiệp,
Cũng cận thân cùng khách hữu tài.
Sao lại bảo bên đường vứt đấy,
Hay rơi hoang cạnh ngục xưa vùi.
Dầu cho khuất lấp hay quên lãng,
Khí kiếm hằng đêm bốc tận trời.
Nguyên tác: Quách Chấn
古劍篇
郭震
君不見
昆吾鐵冶飛炎煙,
紅光紫氣俱赫然。
良工鍛煉凡幾年,
鑄得寶劍名龍泉。
龍泉顏色如霜雪,
良工咨嗟嘆奇絕。
琉璃玉匣吐蓮花,
錯鏤金環映明月。
正逢天下無風塵,
幸得用防君子身。
精光黯黯青蛇色,
文章片片綠龜鱗。
非直接交遊俠子,
亦曾親近英雄人。
何言中路遭棄捐,
零落飄淪古獄邊。
雖復沉埋無所用,
猶能夜夜氣衝天。
Cổ Kiếm Thiên
Quân bất kiến:
Côn Ngô thiết dã phi viêm yên,
Hồng quang tử khí câu hách nhiên.
Lương công đoán luyện phàm kỷ niên,
Chú đắc bảo kiếm danh Long Tuyền.
Long Tuyền nhan sắc như sương tuyết,
Lương công tư ta thán kỳ tuyệt.
Lưu ly ngọc hạp thổ liên hoa,
Thác lũ kim hoàn ánh minh nguyệt.
Chính phùng thiên hạ vô phong trần,
Hạnh đắc dụng phòng quân tử thân.
Tinh quang ảm ảm thanh xà sắc,
Văn chương phiến phiến lục quy lân.
Phi trực kết giao du hiệp tử,
Diệc tằng thân cận anh hùng nhân.
Hà ngôn trung lộ tao khí quyên,
Linh lạc phiêu luân cổ ngục biên.
Tuy phục trầm mai vô sở dụng,
Do năng dạ dạ khí xung thiên.
Quách Chấn
Chú thích:1/ Tác giả QC thông minh dĩnh ngộ, năm 18 tuổi đã đậu tiến sĩ, được bổ làm huyện uý Thông Tuyền, xử đoán công việc ngang tàng hào hiệp, không câu nệ theo tiểu tiết pháp luật. Vũ hậu biết được, triệu về hạch hỏi. Đến khi trò chuyện, thấy là người lạ, bèn hỏi tới văn chương trước tác lúc bình nhật, QC dâng bài thơ này. Vũ hậu xem xong rất khen ngợi, truyền đưa cho bọn Học sĩ Lý Kiều đọc. Từ đó QC bắt đầu được trọng dụng, có lúc lên tới binh bộ thượng thư.
--Dịch nghĩa:--
Bài Ca Về Cây Kiếm Cổ
Bạn thấy chăng:
Thép nung vùng Côn Ngô bay khói nóng,
Dù hồng hay tía thì thép luôn đỏ rực.
Thợ đúc thiện nghệ rèn luyện trong nhiều năm,
mới hoàn thành thanh kiếm quý đặt tên là Long Tuyền.
Màu sắc [kiếm] Long Tuyền [mờ ảo] như sương tuyết,
thợ đúc rành nghề đều tán thán là kỳ lạ và tuyệt vời.
Vỏ kiếm dát ngọc lưu ly hình hoa sen,
chạm khắc[ thêm] vòng vàng lấp lánh dưới trăng sáng.
Chính gặp lúc [thái bình] không gió bụi,
may được người quân từ dùng để phòng thân.
[Lưỡi kiếm] phát ra sắc thẫm như da rắn xanh,
[chuôi kiếm] có các vằn như vẩy mai rùa xanh.
Không được làm bạn với những trang hiệp khách,
thì cũng thân cận vói các bực anh hùng.
Sao lại nói bị vứt bỏ giữa đường,
hay rơi rụng bị vùi lấp bên ngục cổ.
Dù có bị chôn vùi không dùng đến nữa,
nhưng khí kiếm đêm đêm vẫn bốc lên tới trời.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Bạn thấy chăng:
Thép nung vùng Côn Ngô khói toả
Dù tía hồng vẫn đỏ liền liền
Thợ nghề rèn đúc nhiều niên
Mới xong kiếm báu đặt tên Long Tuyền
Màu sắc kiếm Long Tuyền sương tuyết
Ai cũng khen trác tuyệt lạ kỳ
Vỏ sen cẩn ngọc lưu ly
Vòng vàng lấp lánh thầm thì dưới trăng
Gặp chính lúc yên không giặc giã
May được dùng quân tử phòng thân
Lưỡi mang đậm sắc rắn xanh
Chuôi nhiều vẩy tựa rùa xanh mai ngà
Không được bạn với nhà hào hiệp
Cũng làm thân với khách anh hùng
Ai đồn bị bỏ giữa đường?
Hoặc là bị lấp vùi trong ngục tù?
Thân này vùi lấp cho dù
Đêm đêm khí kiếm vẫn đu tới trời.
--Bản dịch của Viên Thu--
Anh có thấy:
Thép Côn Ngô khói nóng rèn trui,
Dầu tía, hồng trông cũng đỏ ngời.
Thợ đúc tài nhiều năm khổ luyện,
Nên Long Tuyền kiếm báu này đây.
Sắc gươm lấp lánh như sương tuyết,
Dân chúng đều khen tuyệt lạ đời.
Vỏ cẩn ngọc hình sen khéo léo,
Chạm vàng rạng rỡ dưới trăng soi.
Gặp hồi không chiến chinh yên ả,
May được cùng quân tử sánh đôi.
Sắc thẩm tựa da loài rắn biếc,
Chuôi vằn như vẩy mai rùa thay.
Không gần gủi với trang hào hiệp,
Cũng cận thân cùng khách hữu tài.
Sao lại bảo bên đường vứt đấy,
Hay rơi hoang cạnh ngục xưa vùi.
Dầu cho khuất lấp hay quên lãng,
Khí kiếm hằng đêm bốc tận trời.