Cổ Ý
Nguyên tác: Thẩm Thuyên Kỳ
古意
沈佺期
盧家少婦鬱金香
海燕雙棲玳瑁梁
九月寒砧催木葉
十年征戍憶遼陽
白狼河北音書斷
丹鳳城南秋夜長
誰為含愁獨不見
更教明月照流黃
Cổ Ý
Lư gia thiếu phụ uất kim hương
Hải yến song thê dại mạo lương
Cửu nguyệt hàn châm thôi mộc diệp
Thập niên chinh thú ức Liêu Dương
Bạch Lang hà bắc âm thư đoạn
Đan Phụng thành nam thu dạ trường
Thùy vị hàm sầu độc bất kiến
Cánh giao minh nguyệt chiếu lưu hoàng
Thẩm Thuyên Kỳ
Dich nghĩa:
(ý xưa)
(người dâu trẻ nhà họ Lư mặc áo màu nghệ)
(đôi én biển đậu trên rường nhà khảm đồi mồi)
(tiếng chày trong tháng 9 giá lạnh làm lá cây rụng)
(nhớ chàng đi lính thú đã 10 năm ở Liêu Dương)
(thư tín từ sông Bạch Lang phương bắc gián đoạn)
(nên những đêm thu ở thành Đan Phụng phía nam dài)
(trời xanh không thấy ta đang vì ai sầu tủi một mình hay sao)
(mà còn khiến cho trăng sáng chiếu đầy ánh vàng)
Bản dịch của SongNguyễn HànTú
Ý Xưa
Dâu nhà Lư,
áo nghệ vàng
Trên rường nhà trạm, chim ngàn đậu chơi
Tháng chín chày giục lá rơi
Liêu Dương cách biệt đã mười năm qua
Dòng Bạch biệt hẳn tin xa
Đêm Thu Đan Phụng thấy ra càng dài
Tủi buồn này biết không trời
Còn đem trăng chiếu khắp nơi ánh vàng
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Gái Lư trang điểm sắc vàng hương
Én biển chung đôi ở cột rường.
Tháng chín lá bay chày lạnh lẽo
Mười năm lính thú nhớ Liêu Dương.
Đêm thu Đan Phụng dài thương nhớ
Thư tín Bạch Lang đứt nẻo đường.
Sầu tủi một mình ai có thấu
Bày chi trăng sáng rũ tơ vương.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Ý xưa
Nàng Lư mùi nghệ còn vương,
Từng đôi hải yến trên rường dừng chân.
Tiếng chầy giục lá rụng dần,
Mười năm lính thú, nhớ thầm Liêu-Dương.
Bạch-Lang, tin tức không đường,
Nên thành Đan-Phụng, Thu đương đêm dài.
Ngậm sầu, chẳng thấy được ai,
Màn Lưu-Hoàng để rọi hoài ánh trăng...
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Nàng Lư mặc áo vàng như nghệ
Đôi én xinh đậu kế kèo tường
Tiếng chày thu động lá vàng
Mười năm lính thú nhớ chàng Liêu Dương
Tin tức ở Bạch Lang gián đoạn
Khiến đêm thu Đan Phụng kéo dài
Chẳng hay sầu tủi vì ai
Lại còn cho ánh trăng soi màn vàng
--Bản dịch của Trần Trọng San--
Nhà Lư thiếu phụ áo hoa vàng,
Én biển từng đôi đến đậu rường.
Tháng chín, tiếng châm tàn lá lạnh,
Mười năm lính thú, nhớ Liêu Dương.
Đêm thu đằng đẵng thành Đan Phượng,
Tin tức im lìm sông Bạch-Lang.
Ai kẻ ngậm sầu, sao chẳng thấy,
Lại cho trăng sáng chiếu lên màn.`
--Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu--
Nàng Lư đeo cỏ uất kim hương,
Én bể từng đôi đậu trước rường.
Tháng Chín chày vang khua lá rụng,
Mười năm lính thú dưới Liêu Dương.
Bạch Lang tin tức sao biền biệt,
Đan Phụng đêm thu những vấn vương.
Ngậm tủi vì ai riêng chẳng thấy,
Để cho trăng sáng rọi màn tương.
Nguyên tác: Thẩm Thuyên Kỳ
古意
沈佺期
盧家少婦鬱金香
海燕雙棲玳瑁梁
九月寒砧催木葉
十年征戍憶遼陽
白狼河北音書斷
丹鳳城南秋夜長
誰為含愁獨不見
更教明月照流黃
Cổ Ý
Lư gia thiếu phụ uất kim hương
Hải yến song thê dại mạo lương
Cửu nguyệt hàn châm thôi mộc diệp
Thập niên chinh thú ức Liêu Dương
Bạch Lang hà bắc âm thư đoạn
Đan Phụng thành nam thu dạ trường
Thùy vị hàm sầu độc bất kiến
Cánh giao minh nguyệt chiếu lưu hoàng
Thẩm Thuyên Kỳ
Dich nghĩa:
(ý xưa)
(người dâu trẻ nhà họ Lư mặc áo màu nghệ)
(đôi én biển đậu trên rường nhà khảm đồi mồi)
(tiếng chày trong tháng 9 giá lạnh làm lá cây rụng)
(nhớ chàng đi lính thú đã 10 năm ở Liêu Dương)
(thư tín từ sông Bạch Lang phương bắc gián đoạn)
(nên những đêm thu ở thành Đan Phụng phía nam dài)
(trời xanh không thấy ta đang vì ai sầu tủi một mình hay sao)
(mà còn khiến cho trăng sáng chiếu đầy ánh vàng)
Bản dịch của SongNguyễn HànTú
Ý Xưa
Dâu nhà Lư,
áo nghệ vàng
Trên rường nhà trạm, chim ngàn đậu chơi
Tháng chín chày giục lá rơi
Liêu Dương cách biệt đã mười năm qua
Dòng Bạch biệt hẳn tin xa
Đêm Thu Đan Phụng thấy ra càng dài
Tủi buồn này biết không trời
Còn đem trăng chiếu khắp nơi ánh vàng
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
Gái Lư trang điểm sắc vàng hương
Én biển chung đôi ở cột rường.
Tháng chín lá bay chày lạnh lẽo
Mười năm lính thú nhớ Liêu Dương.
Đêm thu Đan Phụng dài thương nhớ
Thư tín Bạch Lang đứt nẻo đường.
Sầu tủi một mình ai có thấu
Bày chi trăng sáng rũ tơ vương.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Ý xưa
Nàng Lư mùi nghệ còn vương,
Từng đôi hải yến trên rường dừng chân.
Tiếng chầy giục lá rụng dần,
Mười năm lính thú, nhớ thầm Liêu-Dương.
Bạch-Lang, tin tức không đường,
Nên thành Đan-Phụng, Thu đương đêm dài.
Ngậm sầu, chẳng thấy được ai,
Màn Lưu-Hoàng để rọi hoài ánh trăng...
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Nàng Lư mặc áo vàng như nghệ
Đôi én xinh đậu kế kèo tường
Tiếng chày thu động lá vàng
Mười năm lính thú nhớ chàng Liêu Dương
Tin tức ở Bạch Lang gián đoạn
Khiến đêm thu Đan Phụng kéo dài
Chẳng hay sầu tủi vì ai
Lại còn cho ánh trăng soi màn vàng
--Bản dịch của Trần Trọng San--
Nhà Lư thiếu phụ áo hoa vàng,
Én biển từng đôi đến đậu rường.
Tháng chín, tiếng châm tàn lá lạnh,
Mười năm lính thú, nhớ Liêu Dương.
Đêm thu đằng đẵng thành Đan Phượng,
Tin tức im lìm sông Bạch-Lang.
Ai kẻ ngậm sầu, sao chẳng thấy,
Lại cho trăng sáng chiếu lên màn.`
--Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu--
Nàng Lư đeo cỏ uất kim hương,
Én bể từng đôi đậu trước rường.
Tháng Chín chày vang khua lá rụng,
Mười năm lính thú dưới Liêu Dương.
Bạch Lang tin tức sao biền biệt,
Đan Phụng đêm thu những vấn vương.
Ngậm tủi vì ai riêng chẳng thấy,
Để cho trăng sáng rọi màn tương.