• Kể từ khi các bạn đọc được Thông báo này. Tất cả Khách truy cập trên Văn Đàn chỉ có thể xem bài viết và không thể gửi được góp ý hay ý kiến cá nhân. Vui lòng bạn hãy Đăng Ký để trở thành một thành viên của Văn Đàn, các bạn mới có đầy đủ quyền truy cập trên Văn Đàn. Việc Đăng Ký hoàn toàn miễn phí và rất nhanh chóng.
    Thân!

Việt Cổ Thi Côn Sơn Ca

Thiên Sầu
  • Lượt xem 1K
  • Trả lời: 0
Côn-sơn ca
Nguyên tác: Nguyễn Trãi
Côn-sơn ca.
崑山歌
Tác giả: Nguyễn Trãi
Bản dịch cúa Phạm Doanh
Côn Sơn hữu tuyền,
崑 山 有 泉,
Kì thanh lãnh lãnh nhiên,
其 聲 冷 冷 然,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
吾 以 為 琴 弦。
Côn Sơn hữu thạch,
崑 山 有 石,
Vũ tẩy đài phô bích,
雨 洗 苔 鋪 碧,
Ngô dĩ vi điệm tịch.
吾 以 為 簞 席。
Nham trung hữu tùng,
岩 中 有 松,
Vạn lí thúy đồng đồng,
萬 里 翠 童 童,
Ngô ư thị hồ yển tức kì trung.
吾 於 是 乎 偃 息 其 中。
Lâm trung hữu trúc,
林 中 有 竹,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
千 畝 印 寒 綠,
Ngô ư thị hồ ngâm khiếu kì trắc.
吾 於 是 乎 吟 嘯 其 側。
Vấn quân hồ bất qui khứ lai,
問 君 胡 不 歸 去 來,
Bán sinh trần thổ trường giao cốc.
半 生 塵 土 長 膠 梏。
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,
萬 鐘 九 鼎 何 必 然,
Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.
飲 水 飯 蔬 隨 分 足。
Quân bất kiến :
君 不 見:
Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ,
董 卓 黃 金 盈 一 塢,
Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc.
元 載 胡 椒 八 百 斛。
Hựu bất kiến:
又 不 見:
Bá Di dữ Thúc Tề,
伯 夷 與 叔 齊,
Thủ Dương ngạ tử bất thực túc.
首 陽 餓 死 不 食 粟?
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,
賢 愚 兩 不 相 侔,
Diệc các tự cầu kì sở dục.
亦 各 自 求 其 所 欲。
Nhân sinh bách tuế nội,
人 生 百 歲 內,
Tất cánh đồng thảo mộc.
畢 竟 同 草 木。
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
歡 悲 憂 樂 迭 往 來,
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
一 榮 一 謝 還 相 續。
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
丘 山 華 屋 亦 偶 然,
Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục.
死 後 誰 榮 更 誰 辱。
Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ,
人 間 箬 有 巢 由 徒,
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
勸 渠 聽 我 山 中 曲。
--Dịch nghĩa--:
Bài ca về cảnh Côn Sơn
Côn Sơn có suối; tiếng suối reo trong trẻo làm sao; ta coi nó như tiếng đàn vậy. Côn Sơn có đá; mưa thấm nhuần khiến rêu nẩy màu xanh biếc; ta lấy đó làm chiếu nằm. Trong khe có thông; vạn dặm màu xanh bát ngát; ta nhân đó mà nằm nghỉ ngơi dưới bóng. Trong rừng có trúc; ngàn mẫu nổi màu xanh rờn; ta nhân đó mà hát nghêu ngao ở dưới gốc. Ta hỏi mi sao chẳng chịu đi về cho rồi; đã nửa đời chìm trong cảnh bụi bậm mà cứ còn bon chen hoài. Vạn chuông, chín vạc [* sống trong cảnh giàu sang, thành ngữ Trung quốc \\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\' chung minh đỉnh thực 鍾鳴鼎食 \\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\\' : nhà nhiều khách khứa khi ăn phải đánh chuông báo hiệu, và nấu bằng những vạc lớn. Chung 鍾 : một loại nhạc khí thời cổ và đỉnh 鼎 nồi lớn nấu cơm cho nhiều người ăn. Tới bữa, đánh chuông và nồi bày la liệt. Cụm từ xuất phát từ Sử kí 史記 của Tư mã Thiên, chương Hoá thực liệt truyện 貨殖列傳:” Sái tước , bạc kĩ dã , nhi Chất thị đỉnh thực . Mã y thiển phương , trương lí kích chung” 灑削, 薄技也,而郅氏鼎食。馬醫淺方,張裏擊鍾 ( Đã không có tài mài dao mà anh chàng họ Chất lại đãi ăn bằng đỉnh , Không biết cách xử sự khi gặp cảnh khó khăn , mà trong nhà lại khua chuông ) “ . Đời Đường 唐, Vương Bột 王勃 , trong bài “ Đằng vương các tự 滕王閣序” có viết : ” Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia 闾閻撲地, 鍾鳴鼎食之家 *] có ra cái gì đâu; uống nước lã, ăn rau, cứ theo phận mình là đầy đủ rồi. Mi lại không thấy sao : Đổng Trác [* Đổng Trác 董卓, tên người, ?? - 192 tự là Trọng Dĩnh 仲穎, người tời Hán 漢 vùng Lâm-thao 臨洮 ( nay là huyện Mân 岷縣 tỉnh Cam-túc 甘肅省 ) . Đời vua Tuyên đế 桓帝 , giữ chức vũ lâm lang 羽林郎, sang đời vua Linh đế 靈帝 nắm chức tiền tướng quân 前將軍. Khi Linh đế qua đời mang quân về kinh sư, giết bọn hoạn quan, bỏ vua Thiếu đế 少帝, lập vua Hiến đế 獻帝, giết thái hậu , tự đảm nhiệm chức thái sư , dâm loạn hung bạo . Phe đảng Viên Thiệu 袁紹 nhân đó khởi binh thảo phạt Đổng Trác, nhưng sau đó y bị Lữ Bố 呂布 giết chết. *] có vàng chất đầy kho; Nguyên Tải [* Nguyên Tải 元載 , tên người , ?- 777 , tự là Công Phụ 公輔 , người vùng Kì-sơn 岐山, Phượng- tường 鳳翔 ( nay là Kì sơn, Thiểm tây 陝西 ) . Thời nhỏ gia đình nghèo khổ . Đời vua Túc tông làm quan tứi chức thị lang bộ hộ , chức độ chi sứ 度支使 kiêm chư đạo chuyển vận sứ 諸道轉運使 coi về tổng ngân khố nhà nước. Sau này câu kết cùng hoạn quan Lí phụ Quốc 李輔國, được thăng giữ chức tể tướng 宰相. Khi Đại tông 代宗 lên ngôi, y vẫn còn được làm tể tướng . Hắn thâm thụt ngân quỹ , dùng tiền mua chuộc hoạn quan Đổng Tú 董秀, nên càng được Đại Tông sủng tín . Hắn càng lộng hành, nhưng cuối cùng vào năm Đại lịch thứ mười ( 777 ) bị nhà vua ra lệnh giết. *] có đến tám trăm thùng hồ tiêu [* Khi kiểm tra tài sản nhà Nguyên Tải ngoài vàng bạc châu báu , còn có đến tám trăm thùng hồ tiêu ( Hồ tiêu sao xuất bát bách thạch胡椒抄出八百 石 ) *]. Mi cũng chẳng thấy : Bá Di với Thúc Tề [* Bá Di 伯夷 : vào cuối đời nhà Thương 商, là con của vua nước Cô Trúc 孤竹 cùng với em là Thúc Tề 叔齊 đã phản đối nhà Chu vì đã không ngăn cản được vua nhà Chu là Chu vũ Vương 周武王 diệt nhà Thương. Hai ông đã bỏ vào núi Thủ-dương hái rau vi mà sống, không chịu ăn thóc nhà Chu cho đến chết *] ; không chịu ăn thóc [* của nhà Chu *] đã thà chết đói nơi núi Thủ-dương [* Thủ dương 首陽 : tên núi, còn có tên là Lôi thủ sơn 雷首山, tương truyền là nơi Bá Di , Thúc Tề náu ẩn hái rau vi mà sống . Theo Kinh Thi 詩 , Đường phong 唐風, chương Thái linh 採苓 : “Thái linh thái linh , Thủ dương chi điên 採苓採苓, 首陽 之巔.” Họ Mao 毛 chú : ’ Thủ dương , sơn danh dã 首陽, 山名也 ‘ Theo Mao thi chính nghĩa 毛詩正義, chương Đường phổ 唐譜 thì “ Đường 唐 là tên nước mà vua Chu thành Vương 周成王 phong cho người em Nghiêu 虞, con ông này là Tiếp 燮 đối tên nước thành Tấn 晉, là dải đất chạy dọc sông Phần 汾水 vùng Thái-nguyên 太原 thuộc tỉnh Sơn-tây ngày nay . Vậy toàn thể chương “ Đường phong ” trong Kinh Thi là những bài dân ca mô tả sinh hoạt của vùng này. Chu Hi 朱熹 , người đời Tống, khi chú giải Kinh Thi, có nói :” Kì thi bất vị chi Tấn nhi vị chi Đường , cái nhưng kì thủy phong chi cựu hiệu nhĩ 其詩不謂之晉 而謂之唐,蓋仍其始封之舊號耳 ( Những bài thơ này không gọi là phong tục vùng Tấn mà gọi là phong tục vùng Đường chỉ vì rằng muốn tôn trọng cái tên được phong tặng trước kia ) “ *]. Người hiền với kẻ ngu, dù không giống nhau; nhưng họ đã cùng đạt được cái mình muốn. Trong đời người dài trăm năm; cuối cùng cũng như cây cỏ thôi. Vui, mừng, sướng khổ cứ đổi thay nhau; lúc tươi khi héo cứ tuần tự thay nhau. [* Dù là nơi *] Hang núi [* sơn khâu 山丘, chỉ phần mộ 墳墓 , mồ mả khi chết *] hay nhà đẹp [* Hoa ốc 華屋 : căn nhà lộng lẫy lúc sống , ý mượn từ câu thơ của Tào Thực 曹植, đời Ngụy 魏 thời Tam Quốc 三國 trong bài “ Không hầu dẫn 箜篌引 “ : \\\\\\\' Thịnh thì bất khả tái , bách niên hốt ngã tù ;Sinh tồn hoa ốc xứ, linh lạc qui sơn khâu 盛時不可再,百年忽我遒;生在華屋處,零落歸山丘 \\\\\\\' ( Lúc vui không có mãi, Trăm năm cứ qua vù. Lúc sống ở nhà đẹp, chết rồi về núi gò )*] đó cũng là do ngẫu nhiên; sau khi chết rồi có còn ai vinh với ai nhục. Ở đời nếu có người nào giống như Sào [* Sào Phủ 巢父 *] , [* Hứa 許*] Do [*由 , hai người hiền thời cổ Trung Quốc, không muốn nghe nói đến lợi, danh, ở ẩn trong núi rừng *] [* Hứa Do 許由 là người ở ẩn thời vua Nghiêu thì . Ông tự là Vũ Trọng 武仲, vua Nghiêu nghe nói ông ta là người hiền , bèn đem đất nước mà trao cho ông, ông bèn lánh vào trong rừng, mạn bắc sông Dĩnh , dưới núi Kì ( Dĩnh thủy chi dương, Kì sơn chi hạ 潁水之陽,箕山之下 ) *] [* Sào Phủ dữ Hứa Do : sau khi vua Nghiêu nhường thiên hạ , Hứa Do đá bỏ vào rừng rồi, vua Nghiêu còn tiếp túc mời ông làm chủ chín châu ( cửu châu 九州: chỉ lãnh thổ Trung Hoa thời cổ ), Hứa Do xuống suối rửa tai. Ngay khi đó có Sào Phủ 巢父 đang cho trâu uống nước, thấy cảnh Hữa Do rửa tai, hỏi nguyên nhân. Đáp rằng “ Vua Nghiêu muốn tôi ra làm chủ chín châu, ghét nghe câu đó, nên xuống suối rửa tai ( Nghiêu dục triệu ngã vi cửu châu trường, ác văn kì thanh , thị cố tẩy nhĩ 堯欲召我為九州長,惡聞其聲,是故洗耳 ). Sào Phụ nghe thế nói rằng :” Ông đã ở trong vùng núi cao hang sâu , người đi không tới, Ai là kẻ có thể gặp được ông. Lòng ông vẫn còn ham cành phù du , muốn được người nghe nói đến tên mình , tôi sợ nước rửa tai của ông làm bẩn miệng con trâu của tôi.( Tử nhược xử cao ngạn thâm cốc, nhân đạo bất thông , thùy năng kiến tử ? tử cố phù du , dục văn cầu kì danh dự. ô ngô độc khẩu 子若處高岸深谷, 人道不通, 誰能見子?子故浮游,欲聞求其名譽. 污吾犢口 )’. Nói xong Sào Phủ giắt trâu lên đầu nguồn cho trâu uống nước. *], Thì xin mời lắng nghe ta hát bài ca trong núi.
A.
Côn Sơn suối mát,
Tiếng nước rơi róc rách,
Ta coi là đàn hát.
Côn Sơn đá phẳng,
Mưa tưới rêu mượt bóng,
Ta lấy làm chiếu chõng.
Trong khe có thông,
Vạn dặm xanh một vùng,
Ta nương bóng nghỉ ngơi thật thong dong.
Trong rừng có trúc,
Ngàn mẫu in màu lục,
Ta nhờ đó mà nghêu ngao dưới gốc.
Hỏi ngươi sao chẳng về cho rồi,
Nửa đời bụi bám, còn lăn lóc.
Vạn chuông, chín vạc có ra gì,
Nước lã, cơm rau, đủ tùy lúc.
Ngươi chẳng thấy :
Đổng Trác, vàng bạc đầy một kho,
Nguyên Tải, hồ tiêu tám trăm hộc.
Lại chẳng thấy :
Bá Di với Thúc Tề,
Thủ Dương đói chết, không ăn thóc.
Hiền, ngu hai cái tuy khác nhau,
Nhưng đều đạt được cái mình ước.
Trăm năm, một đời người,
Như cây cỏ, rốt cuộc.
Vui buồn, lo sướng cứ thay phiên,
Khi tươi, lúc héo thường liên tục.
Cửa hang, lầu đẹp do ngẫu nhiên,
Chết rồi còn có ai vinh, nhục.
Trong đời bạn Sào, Hứa nếu còn,
Hãy vào núi nghe ta ca khúc.
B.
Côn Sơn có suối trong veo,
Thác nước đổ xuống tiếng reo rầm rầm.
Ta coi đó là đàn cầm,
Côn sơn có đá như bàn phẳng phiu.
Mưa rơi thấm ướt nẩy rêu,
Chiếu êm thảm mượt là điều ta mong.
Trong núi có mọc đầy thông,
Muôn dặm xanh biếc mênh mông một vùng.
Tha hồ ta nghỉ ở trong,
Lại thêm trúc mọc đầy rừng xanh tươi.
Ngàn mẫu in sắc lạnh người,
Thảnh thơi bên gốc ta thời ngâm nga.
Còn ngươi sao chẳng về cho,
Nửa đời cát bụi vẫn lò dò đi.
Muôn chung ngàn đỉnh ra gì,
Cơm rau nước lã miễn khi đủ dùng.
Ngươi chẳng thấy :
Đổng Trác vàng bạc đầy vung,
Nguyên Tải, có tám trăm thùng hồ tiêu.
Lại chẳng thấy :
Bá Di, Thúc Tề rủ nhau
Thủ-dương đói chết, chẳng cầu thóc Chu .
Hiền ngu có khác gì đâu,
Nhưng cùng thoả mãn điều cầu đấy thôi.
Trăm năm là cõi con người,
Cuối cùng tàn rũ như đời cỏ cây.
Vui buồn, sướng khổ luôn thay,
Khi tươi, khi héo kéo bày theo nhau.
Ngẫu nhiên : hoang đảo, lầu cao,
Chết rồi vinh nhục ai nào biết cho.
Trong đời còn có Sào, Do,
Xin mời vào núi nghe ta hát hò .
--Bản dịch Bản dịch của Lê Cao Phan--
Trong Ức Trai thi tập , Nhà Xuất bản Văn Họ̣c Hà Nội 2000 , tr. 423
Côn Sơn có suối khe róc rách,
Lắng nghe như tiếng phách gần xa.
Có mưa gội đá chan hòa,
Một màu xanh biếc mượt mà nệm rêu.
Thông tùng mọc rảnh đều vạn dặm,
Quả là nơi êm thắm nghỉ ngơi.
Rừng tre nghìn mẫu xanh tươi,
Ngâm nga ta cứ thảnh thơi một mình.
Tự hỏi sao chẳng đành trở lại,
Đà nửa đời khổ ải gian truân.
Sá gì danh lợi phù vân,
Rau rừng nước suối đủ cần ngày qua.
Người chẳng thấy, giàu xưa nhắc mãi,
Đổng Trác, vàng, Nguyên Tái, hồ tiêu?
Nhà Chu, Bá Thúc đâu theo
Thú Dương ẩn trốn, chịu điều thiệt thân.
Hiền ngu rõ, dù phân hai phía,
Sở dục đều một nghĩa như nhau.
Trăm năm chẳng trước thì sau,
Khác gì cây cỏ, lọ cầu bi hoan.
Tươi tốt đấy, héo tàn cũng đấy,
Động núi như lầu giãy dọc ngang.
Xuôi tay, hèn khác gì sang,
Vinh hơn gì nhục, một đường ấy thôi.
Sào, Do ai chuộng trên đời,
Hãy vào chốn núi nghe lời ta ca.
--Bản dịch của Viên Thu--
Côn Sơn Ca
Côn sơn có suối chảy ngân vang,
Ta tưởng chừng nghe một điệu đàn.
Côn sơn có đá biếc rêu xanh,
Vui thú nằm như gặp nệm thanh.
Vạn dặm ngàn thông vời ngát biếc,
Ta ngơi nghỉ dưới bóng yên lành.
Trong rừng rậm rạp bao là trúc,
Ngàn mẫu xanh rờn mát mẻ thay.
Ta cũng thừa nhàn vui hát mãi,
Nghêu ngao một khúc rõ dông dài.
Hỏi anh sao chẳng về đây hẳn,
Đã nửa đời chen chốn bụi trần.
Chín vạc, vạn chung nào đáng kể,
Ăn rau, uống nước lã nhàn thân.
Anh chẳng thấy ?
Bạc vàng Đổng Trác đầy kho đấy,
Hồ tiêu Nguyên Tải đến trăm thùng.
Cũng không thấy ?
Thúc Tề cùng Bá Di danh tiết,
Thà chết đói cùng núi Thủ dương.
Người hiền, kẻ dại dù không giống,
Nhưng họ đạt thành cái ước mong.
Trong cuộc trăm năm cho một kiếp,
Cuối cùng như cỏ rã đành xong.
Vui buồn sướng khổ luân lưu mãi,
Lúc rạng khi tàn cứ đổi thay.
Nhà đẹp với mồ hoang cũng vậy,
Chết rồi, vinh nhục kể gì ai !
Trên đời có Hứa Do, Sào Phủ,
Trong núi lắng nghe khúc hát này.
 
Top Bottom