Cửu Bất Đắc Trương Kiều Tiêu Tức
Nguyên tác: Trịnh Cốc
久不得張喬消息
鄭谷
天末去程孤,
沿淮復向吳.
亂離何處甚,
安穩到家無?
樹盡雲垂野,
檣 稀月滿湖.
傷心遶村慮.
應少舊耕夫.
Cửu Bất Đắc Trương Kiều Tiêu Tức
Trịnh Cốc
Thiên mạt khứ trình cô,
Duyên Hoài phục hướng Ngô
Loạn ly hà xứ thậm?
An ổn đáo gia vô?
Thụ tận vân thùy dã,
Tường hi nguyệt mãn hồ.
Thương tâm nhiễu thôn lạc,
Ưng thiểu cựu canh phu.
Chú thích: 1/ Trương Kiều, thi nhân nổi tiếng đời Đường, để lại 2 quyển gồm 171 bài thơ. Là một trong nhóm mười nhà thơ được đời gọi là “Phương lâm thập triết” trong đó có cả tác giả Trịnh Cốc. 2/ Hoài, tên sông, phát nguyên từ núi Đồng Bách tỉnh Hà Nam, chảy hướng đông qua An Huy, Giang Tô, nhập vào hồ Hồng Trạch để ra biển. 3/ Ngô, tên nước thời Xuân Thu, nay là tỉnh Giang Tô.
--Dịch nghĩa:--
Lâu Không Được Tin Tức Của Trương Kiều
Một mình ông ra đi về cuối trời,
lại theo sông Hoài về đất Ngô.
Thời buổi loạn ly, chỗ nào giặc nhiều nhất?
Ông về tới nhà yên ổn không?
Nơi đây mây thấp phủ hết cây ngoài đồng nội,
hiếm thấy một cánh buồm, trăng chiếu khắp hồ.
Đi vòng thôn xóm thấy mà thương tâm,
vì thiếu vắng vài chú thợ cày quen [đi lính xa chưa về].
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Hướng cuối trời một mình lèo lái
Theo sông Hoài về lại đất Ngô.
Loạn ly giặc giã đâu to?
Ông đi yên ổn tới nhà được không?
Đây mây thấp phủ cây đồng nội,
Hiếm thấy buồm, trăng rọi khắp hồ.
Đi vòng thôn xóm buồn so,
Thợ cày quen biết lính xa chưa về.
--Bản dịch của Viên Thu--
Cô lẻ ông đi tận cuối trời,
Sông Hoài xuôi mãi đến Ngô thôi.
Loạn ly, biết chốn nào cùng khổ
Yên ổn, về nhà có được xuôi.
Mây xuống cây mờ phô ruộng ảm,
Trăng soi hồ sáng vắng buồm trôi.
Rảo vòng thôn xóm buồn thương lắm,
Anh thợ cày quen vắng bóng rồi.
Nguyên tác: Trịnh Cốc
久不得張喬消息
鄭谷
天末去程孤,
沿淮復向吳.
亂離何處甚,
安穩到家無?
樹盡雲垂野,
檣 稀月滿湖.
傷心遶村慮.
應少舊耕夫.
Cửu Bất Đắc Trương Kiều Tiêu Tức
Trịnh Cốc
Thiên mạt khứ trình cô,
Duyên Hoài phục hướng Ngô
Loạn ly hà xứ thậm?
An ổn đáo gia vô?
Thụ tận vân thùy dã,
Tường hi nguyệt mãn hồ.
Thương tâm nhiễu thôn lạc,
Ưng thiểu cựu canh phu.
Chú thích: 1/ Trương Kiều, thi nhân nổi tiếng đời Đường, để lại 2 quyển gồm 171 bài thơ. Là một trong nhóm mười nhà thơ được đời gọi là “Phương lâm thập triết” trong đó có cả tác giả Trịnh Cốc. 2/ Hoài, tên sông, phát nguyên từ núi Đồng Bách tỉnh Hà Nam, chảy hướng đông qua An Huy, Giang Tô, nhập vào hồ Hồng Trạch để ra biển. 3/ Ngô, tên nước thời Xuân Thu, nay là tỉnh Giang Tô.
--Dịch nghĩa:--
Lâu Không Được Tin Tức Của Trương Kiều
Một mình ông ra đi về cuối trời,
lại theo sông Hoài về đất Ngô.
Thời buổi loạn ly, chỗ nào giặc nhiều nhất?
Ông về tới nhà yên ổn không?
Nơi đây mây thấp phủ hết cây ngoài đồng nội,
hiếm thấy một cánh buồm, trăng chiếu khắp hồ.
Đi vòng thôn xóm thấy mà thương tâm,
vì thiếu vắng vài chú thợ cày quen [đi lính xa chưa về].
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Hướng cuối trời một mình lèo lái
Theo sông Hoài về lại đất Ngô.
Loạn ly giặc giã đâu to?
Ông đi yên ổn tới nhà được không?
Đây mây thấp phủ cây đồng nội,
Hiếm thấy buồm, trăng rọi khắp hồ.
Đi vòng thôn xóm buồn so,
Thợ cày quen biết lính xa chưa về.
--Bản dịch của Viên Thu--
Cô lẻ ông đi tận cuối trời,
Sông Hoài xuôi mãi đến Ngô thôi.
Loạn ly, biết chốn nào cùng khổ
Yên ổn, về nhà có được xuôi.
Mây xuống cây mờ phô ruộng ảm,
Trăng soi hồ sáng vắng buồm trôi.
Rảo vòng thôn xóm buồn thương lắm,
Anh thợ cày quen vắng bóng rồi.