Mạn hứng (II)
Nguyên tác: Nguyễn Du
漫興 (二)
阮攸 (清軒詩集)
行腳無根任轉蓬
江南江北一囊空
百年窮死文章裏
六尺浮生天地中
萬里黃冠將暮景
一頭白髮散西風
無窮今古傷心處
依舊青山夕照紅
- Phiên âm -
Mạn hứng (II)
Nguyễn Du (Thanh Hiên Thi Tập)
Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng
Giang nam giang bắc nhất nang không
Bách niên cùng tử văn chương lí
Lục xích (1) phù sinh thiên địa trung
Vạn lí hoàng quan (2) tương mộ cảnh
Nhất đầu bạch phát tán tây phong
Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng
- Dịch nghĩa -
Mạn hứng (II)
Chân không bén rễ mặc chuyển dời như cỏ bồng
Một chiếc túi rỗng đi hết phía nam sông sang phía bắc sông
Cuộc đời trăm năm chết rục trong vòng văn chương
Tấm thân sáu thước sống lênh đênh giữa vùng trời đất
Muôn dặm mũ vàng đối cùng cảnh trời chiều
Một đầu tóc bạc bay tung theo ngọn gió tây
Nơi chứa đựng bao nhiêu chuyện đau lòng xưa nay
(Ấy là) Dãy núi xanh nhuộm bóng chiều hồng như cũ.
- Bản dịch của Quách Tấn -
(Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris 1995)
Mạn hứng (II)
Kiếp cỏ bồng chân không bén rễ,
Băc rồi Nam túi nhẹ ven sông.
Văn chương thác vẫn đèo bồng,
Thân trôi nổi mãi trong vòng kiền khôn.
Dặm hoàng quan bồn chồn nắng tắt,
Gió lạnh lùng thổi bật mái sương.
Xưa nay xiết nỗi đoạn trường,
Non xanh dưới ánh tà dương nhuộm hồng.
(1) Lục xích: \"Lục xích thân\" nghĩa là thân sáu thước.
Thân tám thước là thân kẻ anh hùng.
Thân bảy thước là thân kẻ làm trai.
Thân năm thước là thân ngũ đoản của người thấp kém.
Nguyễn Du tự cho mình chỉ ở trên đám \"ngũ đoản\" và ở dưới đám \"thất xích\", nên dùng chữ \"lục xích\". Đó là lời nói khiêm.
(2) Hoàng quan: Mũ vàng tức mũ người đạo sĩ.
-- Bản dịch của NguyễnTâmHàn --
Chân không rễ như cỏ bồng trôi giạt
Đãy rỗng không đi hết bắc lại nam
Ôm văn chương kiết xác suốt trăm năm
Thân sáu thước đời lênh đênh khắp cõi
Ngày bóng xế , mảnh mũ vàng, chân mỏi
Ngọn gió tây tung mái tóc điểm sương
Việc xưa nay biết bao chuyện thảm thương
Núi xanh đó chiều rực hồng muôn thuở
--Bản dịch của Viên Thu--
Bám rễ đâu chân, tựa cỏ bồng,
Túi không phiêu giạt bắc nam sông.
Trăm năm thơ phú, đày cùng cực,
Sáu thước đất trời, đọa viễn vông.
Vạn dặm mũ vàng chiều xế lộng,
Một vầng tóc bạc gió bay tung.
Xưa nay đây chốn đầy thương hận,
Nhật lặn, núi xanh nhuốm ráng hồng.
Nguyên tác: Nguyễn Du
漫興 (二)
阮攸 (清軒詩集)
行腳無根任轉蓬
江南江北一囊空
百年窮死文章裏
六尺浮生天地中
萬里黃冠將暮景
一頭白髮散西風
無窮今古傷心處
依舊青山夕照紅
- Phiên âm -
Mạn hứng (II)
Nguyễn Du (Thanh Hiên Thi Tập)
Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng
Giang nam giang bắc nhất nang không
Bách niên cùng tử văn chương lí
Lục xích (1) phù sinh thiên địa trung
Vạn lí hoàng quan (2) tương mộ cảnh
Nhất đầu bạch phát tán tây phong
Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng
- Dịch nghĩa -
Mạn hứng (II)
Chân không bén rễ mặc chuyển dời như cỏ bồng
Một chiếc túi rỗng đi hết phía nam sông sang phía bắc sông
Cuộc đời trăm năm chết rục trong vòng văn chương
Tấm thân sáu thước sống lênh đênh giữa vùng trời đất
Muôn dặm mũ vàng đối cùng cảnh trời chiều
Một đầu tóc bạc bay tung theo ngọn gió tây
Nơi chứa đựng bao nhiêu chuyện đau lòng xưa nay
(Ấy là) Dãy núi xanh nhuộm bóng chiều hồng như cũ.
- Bản dịch của Quách Tấn -
(Tố Như thi, An Tiêm xuất bản, Paris 1995)
Mạn hứng (II)
Kiếp cỏ bồng chân không bén rễ,
Băc rồi Nam túi nhẹ ven sông.
Văn chương thác vẫn đèo bồng,
Thân trôi nổi mãi trong vòng kiền khôn.
Dặm hoàng quan bồn chồn nắng tắt,
Gió lạnh lùng thổi bật mái sương.
Xưa nay xiết nỗi đoạn trường,
Non xanh dưới ánh tà dương nhuộm hồng.
(1) Lục xích: \"Lục xích thân\" nghĩa là thân sáu thước.
Thân tám thước là thân kẻ anh hùng.
Thân bảy thước là thân kẻ làm trai.
Thân năm thước là thân ngũ đoản của người thấp kém.
Nguyễn Du tự cho mình chỉ ở trên đám \"ngũ đoản\" và ở dưới đám \"thất xích\", nên dùng chữ \"lục xích\". Đó là lời nói khiêm.
(2) Hoàng quan: Mũ vàng tức mũ người đạo sĩ.
-- Bản dịch của NguyễnTâmHàn --
Chân không rễ như cỏ bồng trôi giạt
Đãy rỗng không đi hết bắc lại nam
Ôm văn chương kiết xác suốt trăm năm
Thân sáu thước đời lênh đênh khắp cõi
Ngày bóng xế , mảnh mũ vàng, chân mỏi
Ngọn gió tây tung mái tóc điểm sương
Việc xưa nay biết bao chuyện thảm thương
Núi xanh đó chiều rực hồng muôn thuở
--Bản dịch của Viên Thu--
Bám rễ đâu chân, tựa cỏ bồng,
Túi không phiêu giạt bắc nam sông.
Trăm năm thơ phú, đày cùng cực,
Sáu thước đất trời, đọa viễn vông.
Vạn dặm mũ vàng chiều xế lộng,
Một vầng tóc bạc gió bay tung.
Xưa nay đây chốn đầy thương hận,
Nhật lặn, núi xanh nhuốm ráng hồng.