Tứ thời thi – Hạ từ
Nguyên tác: Ngô Chi Lan
四时诗 。夏詞
吳芝蘭
風吹榴花红番番
佳人閒打秋千援
傷春倍立一黄鸎
惜晾偯啼双子鷰
停鍼無語翆盾低
倦倚紗窗夢迷慾
卻怪卷簾人唤起
香魂終不到廖西
Tứ thời thi – Hạ từ
Ngô Chi Lan
Phong xuy lựu hoa hồng phiến phiến,
Giai nhân nhàn đả thu thiên viện.
Thương xuân bội lập nhất hoàng oanh,
Tích cảnh ai đề song tử yến.
Đình châm vô ngữ thúy mi đê,
Quyện ỷ sa song mộng dục mê.
Khước quái quyển liêm nhân hoán khởi,
Hương hồn chung bất đáo Liêu Tê (Tây).
--Bản dịch khuyết danh:--
Thơ tứ thời - Mùa hạ
Gió đưa hoa lựu hồng phơi phới,
Người đẹp bên đu xiêm dấp dới.
Én tía thương xuân réo rắc kêu,
Oanh vàng tiếc cảnh chần chờ đợi.
Dừng kim lặng lẽ nhíu đôi mày,
Buồn tựa song thưa mộng rắp say.
Trách kẻ cuộn rèm kêu tỉnh dậy,
Hồn hương chẳng kịp đến Liêu Tây.
--Bản dịch khuyết danh:--
Gió rung hoa lựu tơi bời
Trên đầu tha thướt dáng người mỹ nhân
Oanh vàng ủ rũ thương xuân
Một đôi yến tía họa vần trong cây
Dừng kim rủ thấp đôi mày
Nương song hồn mộng xa bay cuối trời
Cuốn rèm nheo nhéo kìa ai
Cho hồn chẳng tới cõi ngoài Liêu Tây.
--Bản dịch của Phụng Hà:--
Trong gió lựu hồng rơi rụng cánh,
Trên đu mỹ nhân đùa nhí nhảnh.
Oanh vàng ủ rũ ngùi thương xuân,
Én tía nỉ non buồn tiếc cảnh.
Dừng kim nín lặng đôi mày chau,
Thiu ngủ tựa song mộng xa bay.
Ai đến cuốn rèm làm tỉnh giấc,
Hồn em chẳng đến được Liêu Tây.
--Bản dịch của Viên Thu--
Gió thổi lựu hồng hoa phất phới,
Giai nhân nhàn đánh đu thơ thới.
Cái oanh vàng rũ tiếc xuân phai,
Đôi én tía than hoài cảnh mới.
Dừng kim lặng khép cánh mi gầy,
Mòn mõi tựa song thả mộng say.
Ai nỡ cuốn rèm làm thức giấc,
Cho hồn không tới được Liêu tây.
--Tiểu sử tác giả--
Bà Ngô Chi Lan (吳芝蘭), không rõ năm sinh năm mất, sống
dưới thời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460-1497) và vua Lê
Hiến Tông (1497-1504)
Bà người làng Phù Lỗ,huyện Kim Hoa (sau đổi là Kim Anh),
trấn Kinh Bắc (nay là huyện Sóc Sơn, thuộc ngoại thành Hà
Nội.
Nổi tiếng đẹp người, đẹp nết, giỏi thi ca, thông hiểu âm nhạc
và viết chữ đẹp, nên bà được vua Lê Thánh Tông ban hiệu là
Kim Hoa nữ học sĩ và Phù Gia nữ học sĩ; cho dự nhiều cuộc
xướng họa thơ văn, và cho bà đảm đương việc dạy lễ nghi và
văn chương cho các cung nhân.
Bà chỉ có một tập thơ duy nhất là Mai trang tập (Tập thơ vườn
mai), nay đã thất truyền. Hiện thơ bà chỉ còn lại trên dưới 10
bài in rải rác trong các sách Truyền kỳ mạn lục, Lĩnh Nam
chích quái, Kiến văn tiểu lục và Trích diễm thi tập.
Nguyên tác: Ngô Chi Lan
四时诗 。夏詞
吳芝蘭
風吹榴花红番番
佳人閒打秋千援
傷春倍立一黄鸎
惜晾偯啼双子鷰
停鍼無語翆盾低
倦倚紗窗夢迷慾
卻怪卷簾人唤起
香魂終不到廖西
Tứ thời thi – Hạ từ
Ngô Chi Lan
Phong xuy lựu hoa hồng phiến phiến,
Giai nhân nhàn đả thu thiên viện.
Thương xuân bội lập nhất hoàng oanh,
Tích cảnh ai đề song tử yến.
Đình châm vô ngữ thúy mi đê,
Quyện ỷ sa song mộng dục mê.
Khước quái quyển liêm nhân hoán khởi,
Hương hồn chung bất đáo Liêu Tê (Tây).
--Bản dịch khuyết danh:--
Thơ tứ thời - Mùa hạ
Gió đưa hoa lựu hồng phơi phới,
Người đẹp bên đu xiêm dấp dới.
Én tía thương xuân réo rắc kêu,
Oanh vàng tiếc cảnh chần chờ đợi.
Dừng kim lặng lẽ nhíu đôi mày,
Buồn tựa song thưa mộng rắp say.
Trách kẻ cuộn rèm kêu tỉnh dậy,
Hồn hương chẳng kịp đến Liêu Tây.
--Bản dịch khuyết danh:--
Gió rung hoa lựu tơi bời
Trên đầu tha thướt dáng người mỹ nhân
Oanh vàng ủ rũ thương xuân
Một đôi yến tía họa vần trong cây
Dừng kim rủ thấp đôi mày
Nương song hồn mộng xa bay cuối trời
Cuốn rèm nheo nhéo kìa ai
Cho hồn chẳng tới cõi ngoài Liêu Tây.
--Bản dịch của Phụng Hà:--
Trong gió lựu hồng rơi rụng cánh,
Trên đu mỹ nhân đùa nhí nhảnh.
Oanh vàng ủ rũ ngùi thương xuân,
Én tía nỉ non buồn tiếc cảnh.
Dừng kim nín lặng đôi mày chau,
Thiu ngủ tựa song mộng xa bay.
Ai đến cuốn rèm làm tỉnh giấc,
Hồn em chẳng đến được Liêu Tây.
--Bản dịch của Viên Thu--
Gió thổi lựu hồng hoa phất phới,
Giai nhân nhàn đánh đu thơ thới.
Cái oanh vàng rũ tiếc xuân phai,
Đôi én tía than hoài cảnh mới.
Dừng kim lặng khép cánh mi gầy,
Mòn mõi tựa song thả mộng say.
Ai nỡ cuốn rèm làm thức giấc,
Cho hồn không tới được Liêu tây.
--Tiểu sử tác giả--
Bà Ngô Chi Lan (吳芝蘭), không rõ năm sinh năm mất, sống
dưới thời vua Lê Thánh Tông trị vì (1460-1497) và vua Lê
Hiến Tông (1497-1504)
Bà người làng Phù Lỗ,huyện Kim Hoa (sau đổi là Kim Anh),
trấn Kinh Bắc (nay là huyện Sóc Sơn, thuộc ngoại thành Hà
Nội.
Nổi tiếng đẹp người, đẹp nết, giỏi thi ca, thông hiểu âm nhạc
và viết chữ đẹp, nên bà được vua Lê Thánh Tông ban hiệu là
Kim Hoa nữ học sĩ và Phù Gia nữ học sĩ; cho dự nhiều cuộc
xướng họa thơ văn, và cho bà đảm đương việc dạy lễ nghi và
văn chương cho các cung nhân.
Bà chỉ có một tập thơ duy nhất là Mai trang tập (Tập thơ vườn
mai), nay đã thất truyền. Hiện thơ bà chỉ còn lại trên dưới 10
bài in rải rác trong các sách Truyền kỳ mạn lục, Lĩnh Nam
chích quái, Kiến văn tiểu lục và Trích diễm thi tập.